question
stringlengths
31
360
answer
stringlengths
0
39.1k
Tên bản án là gì Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Cảnh. Các Thẩm phán: 1. Ông Trần Văn Quán. 2. Ông Trần Tấn Quốc.
Ai là nguyên đơn Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Nguyên đơn: Bà Đinh Mỹ B, sinh năm 1979. Địa chỉ: 397, ấp Thạnh Lợi, xã X, huyện Y, tỉnh Long An.
Ai là bị đơn Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bị đơn: Ông Cao Văn A, sinh năm 1955. Địa chỉ: 138B, ấp Bình Lợi, xã X, huyện Y, tỉnh Long An.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Chung – Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Thư ký phiên tòa: Bà Đặng Thị Kim Thanh – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Theo đơn khởi kiện ngày 06/01/2022, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đinh Mỹ B trình bày: Ngày 02/02/2021, bà và ông Cao Văn A có ký kết hợp đồng xây dựng với nội dung là ông A thầu xây dựng công trình nhà ở của bà theo bản thiết kế đã có sẵn, phần bên trong có sự thay đổi theo ý thích của chủ nhà và làm thêm phần nhà sau, bó hè, cán sân trước; giá trị tiền công thợ trọn gói là 320.000.000 đồng cho đến khi hoàn thiện xây dựng và giao nhà. Bà đã giao cho ông A đủ số tiền 320.000.000 đồng và trong quá trình xây dựng ông A đã ứng thêm 50.000.000 đồng, tổng cộng là 370.000.000 đồng. Trong đó, số tiền 100.000.000 đồng bà B đưa cho con của ông A là Cao Khánh Thiện nhận, ông Thiện nhận số tiền này sử dụng vào mục đích gì bà không biết. Sau này, ông A nói với bà là trừ số tiền 100.000.000 đồng này vào tiền công thợ. Từ ngày 30/10/2021 ông A yêu cầu ứng thêm tiền công thợ mỗi tuần, bà không đồng ý nên ông A thi công kéo dài, một tuần chỉ thi công từ 01 đến 02 ngày và chỉ có 03 người làm mỗi ngày. Vì ông A làm chậm tiến độ xây dựng nên ảnh hưởng đến chất lượng vật tư: ximăng bị chết, sắt bị gỉ sét và vật tư tăng giá. Ngày 04/01/2022, ông A tự ý cho nhân công về và thu dọn trang thiết bị máy móc khỏi công trình xây dựng. Tại thời điểm ông A dọn đồ đi thì công trình nhà của bà vẫn còn đang dang dở: chưa lợp ngói, chưa đổ hoàn thiện 03 cái vòm, chưa chạy điện nước, chưa tô, chưa sơn, chưa lát gạch, chưa dán gạch, chưa trán bó hè, chưa cán sân. Vợ chồng bà nhiều lần gọi điện thoại cho ông A để năn nỉ ông A tiếp tục thi công cho kịp ngày dọn vô nhà ở nhưng ông A không chịu tiếp tục thi công nữa, bỏ công trình nhà của bà dang dở. Ngày 09/01/2022, vợ chồng bà đã đến nhà ông A gặp ông A để bàn chuyện tiếp tục thi công nhưng ông A trả lời không làm nữa. Hoàn toàn không có việc ông A gọi điện thoại cho bà và bà nói với ông A là đã thuê thợ mới. Vì đến ngày 21/01/2022 thầu mới bắt đầu thi công tiếp tục công trình, ngày 26/01/2022, vợ chồng bà B mới ký kết hợp đồng xây dựng mới với chủ thầu Trần Minh Mẫn. Vì vậy, bà làm đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng xây dựng xác lập ngày 02/02/2021 giữa bà và ông Cao Văn A, 3 yêu cầu ông Cao Văn A bồi thường số tiền 200.000.000 đồng, gồm số tiền 50.000.000 đồng ông A đã nhận dư và 150.000.000 đồng là bồi thường do ông A làm chậm tiến độ xây dựng gây thiệt hại cho bà. Tại biên bản lấy lời khai ngày 13/6/2022, nguyên đơn bà Đinh Mỹ B thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà không yêu cầu ông A trả lại số tiền 50.000.000 đồng ông A đã ứng dư. Vì ông A tự ý chấm dứt thực hiện hợp đồng đã ký kết, vợ chồng bà B phải tốn chi phí để thuê thầu mới tiếp tục thi công trình đến khi hoàn tất với tiền công thợ thi công phần nhà chính là 235.000.000 đồng, thi công phần nhà phụ là 50.000.000 đồng, tổng cộng là 285.000.000 đồng. Bà yêu cầu ông Cao Văn A bồi thường cho bà số tiền 200.000.000 đồng là số tiền thiệt hại do ông A ngừng thi công công trình nhà, bà phải bỏ tiền ra để thuê thợ mới tiếp tục thi công đến hoàn thiện công trình.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bị đơn ông Cao Văn A trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa như sau: Ngày 02/02/2021, ông và bà Đinh Mỹ B có ký kết hợp đồng xây dựng với nội dung như bà B trình bày. Mặc dù người ký kết hợp đồng là bà Đinh Mỹ B nhưng thực tế người thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi với ông là Út Ba (tức là ông Võ Thanh D – chồng của bà Đinh Mỹ B). Trong suốt quá trình thi công công trình thì ông D trực tiếp ở công trình để giám sát, không ngày nào ông D vắng mặt. Trong quá trình thi công công trình đã phát sinh thêm ngoài hợp đồng, cụ thể như sau: + Bên hông ngang 3,48m; dài 15,40m là 53,59m2; phần này mặt trước có đổ vòm; + Phía sau: ngang 4,10m; dài 10,68m là 43,79m2. + Tam cấp: ngang 1,20m; dài 3,48m là 4,42m2. Tổng diện tích phát sinh là 101,80m2. Phần diện tích chính làm theo bản vẽ thiết kế đã có, phần phía sau phát sinh đã được thỏa thuận trong hợp đồng nên phần thêm phía sau đã được chuyển đến sau cuối của công trình. Trong thời gian thi công vì đã phát sinh thêm nhiều hơn so với bản vẽ thiết kế nên ông có thỏa thuận với ông D về tiền công thợ của công trình là 570.000.000 đồng, ông D đồng ý nên ông A mới đồng ý làm tiếp. Ngoài ra, trong quá trình thi công ông còn thi công công trình khác cùng lúc, việc này vợ chồng ông D cũng biết và đồng ý. Về tiền công thợ thì ông trả công cho thợ chính là 400.000 đồng - 500.000 đồng/ngày, thợ phụ từ 330.000 - 380.000 đồng/ngày. Tổng số tiền ông đã ứng của bà B và ông D tính đến ngày 30/10/2021 là 364.355.000 đồng. Trong đó, có số tiền 100.000.000 đồng do con của ông là Cao Khánh Thiện nhận thay ông và cũng đã đưa lại số tiền này cho ông. Trong thời gian thi công công trình nhà ở của bà B có thời gian gián đoạn do nghỉ dịch Covid-19, đến ngày 08/11/2021 ông vẫn cho thợ tiếp tục thi công đến ngày 01/01/2022, là ngày đổ bê tông sàn mái nhà chính xong, ông ứng tiền công thợ nhưng ông D nói để hỏi lại vợ, sau đó cũng không ứng được tiền. Đến ngày 04/01/2022, giữa thợ và ông D xảy ra cự cãi, lúc này ông A không có mặt, sau khi xảy ra cự cãi thì ông D không cho thợ làm nữa. Ngày hôm sau là ngày 05/01/2022, ông A có chở máy trộn hồ đi cho em của ông cũng là thầu xây dựng mượn. Đến ngày 09/01/2022, ông có gặp vợ chồng ông D để bàn bạc thống nhất tiếp tục thi công. Sau đó, ông có liên lạc với vợ chồng ông D để báo là ngày mai ông cho thợ đến công trình tiếp tục thi công, thì bà B nói với ông là đã kêu thợ khác thi công, ông A nói với bà B “như vậy là vợ chồng em hủy hợp đồng trước, chứ anh không hủy hợp đồng trước”. Đến ngày 16/01/2022, ông gọi điện thoại báo cho vợ chồng ông D ngày mai sẽ dọn đồ đi, thời gian ông A dọn đồ đi từ ngày 16 đến ngày 18/01/2022, chỉ có mặt bà B, không có mặt ông D. Nay bà B khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng xây dựng ký kết ngày 02/02/2021, ông A cũng đồng ý hủy hợp đồng nhưng do phía bà B hoàn toàn có lỗi khi tự ý chấm dứt hợp đồng trước, ông hoàn toàn không có lỗi. Sau ngày 30/10/2021 thì bà B không trả tiền công thợ cho ông nữa nên ông phải tự bỏ ra số tiền 68.000.000 đồng để trả tiền công thợ. Vì vậy, ông không đồng ý bồi thường thiệt hại như yêu cầu khởi kiện của bà B.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
QUYẾT ĐỊNH: Áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 293, 296 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Không chấp nhận một phần kháng cáo của ông Cao Văn A. Cải sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 47/2022/DS-ST ngày 21-6-2022 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Long An. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 94, 97, 147, 148, 156, 157, 158, 177, 235, 244, 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 402, 410, 419, 422, 423, 427, 428 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 138, 140, 145 của Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020; Điều 6, 12, 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Mỹ B về “tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” đối với ông Cao Văn A. [2] Buộc ông Cao Văn A có nghĩa vụ bồi thường cho bà Đinh Mỹ B số tiền 34.516.265 đồng (ba mươi bốn triệu, năm trăm mười sáu nghìn, hai trăm sáu mươi lăm đồng). [3] Về chi phí tố tụng: [3.1] Buộc ông Cao Văn A phải chịu số tiền 11.500.000 đồng (đã nộp xong). [3.2] Buộc bà Đinh Mỹ B và ông Võ Thanh D liên đới chịu 11.500.000 đồng để hoàn trả lại cho ông Cao Văn A đã tạm ứng trước. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với [1] Chấm dứt Hợp đồng xây dựng ngày 02/02/2021 ký kết giữa bà Đinh Mỹ B và ông Cao Văn A. 11 các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. [4] Về án phí sơ thẩm: [4.1] Bà Đinh Mỹ B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà B số tiền 5.000.000 đồng tạm ứng án phí bà B đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007132 ngày 17/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Long An. [4.2] Ông Cao Văn A được miễn nộp tiền án phí. [5] Về án phí phúc thẩm: Miễn cho ông Cao Văn A. [6] Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành ngay sau khi tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: 1. Về thủ tục tố tụng: [1.1 Ông Cao Văn A kháng cáo trong thời hạn luật định là hợp lệ, đúng thủ tục tố tụng nên được chấp nhận xem xét lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. [1.2] Bị đơn Cao Văn Tỷ có nơi cư trú tại huyện Y nên Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Long An thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. [2] Về nội dung tranh chấp: [2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, tất cả các đương sự đều thống nhất với nhau các nội dung sau: - Bà Đinh Mỹ B và ông Cao Văn A xác lập Hợp đồng xây dựng ngày 02/02/2021 (nhầm ngày 21/12/2020 âm lịch), theo đó ông A có trách nhiệm “xây nhà làm theo bản vẽ đã có và phần bên trong có sự thay đổi theo sở thích của chủ nhà và có làm thêm khúc nhà bên sau + bó hè + cán sân phía trước theo sự bàn bạc và thống nhất. Tổng giá trị tiền công khi hoàn thiện giao nhà là 320.000.000 đồng giá trị thanh toán tiền thợ lấy tiền vào ngày thứ bảy mỗi tuần...”. - Bản vẽ nhà khi ký kết hợp đồng nêu trên do ông D, bà B cung cấp có kích thước 7,2m, chiều dài là 15,4m nhưng thực tế thi công nhà có kích thước ngang 10,7m, chiều dài là 23,3m. - Ông Cao Văn A thừa nhận đã nhận 364.355.000 đồng (lần cuối vào ngày 30/10/2021) và ngừng thi công vào ngày 04/01/2022 khi chỉ mới hoàn thành phần thô căn nhà thỏa thuận xây cho bà B. - Vào ngày 04/01/2022, ông Võ Thanh D (chồng bà B) có cự cải với ông Lê Văn Lực (thợ làm công cho ông Cao Văn A) đang xây dựng nhà cho bà B, ông D tại thời điểm đó. Trên đây là các tình tiết không phải chứng minh theo Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. [2.2] Từ sự thừa nhận, thống nhất như trên của các đương sự có cơ sở khẳng định có sự tăng thêm khối lượng thi công căn nhà cho ông D và bà B nhưng không được ông D và bà B thừa nhận có việc thoả thuận giá thi công căn nhà lên tới 570.000.000 đồng. Sau đó, các bên mâu thuẫn dẫn đến chấm dứt thi công công trình nhà ở của ông D và bà B. Do đó, lập Hợp đồng xây dựng ngày 02/02/2021 không còn hiệu lực ràng buộc các bên do các bên không thực hiện đúng thoả thuận được ghi trong hợp đồng (mặc dù trong hợp đồng không ghi bản vẽ nhưng hai bên thừa nhận có bản vẽ ban đầu do ông D cung cấp). Do vậy, cần căn cứ vào thực tế khối lượng mà ông A đã thi công cho công trình nhà ở của ông D, bà B và số lượng tiền mà ông A tạm ứng của ông D, bà B để giải quyết. [2.3] Tại phiên toà phúc thẩm, hai bên đương sự thống nhất với Báo cáo dự toán thiết kế của Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng Minh Long lập năm 2023 thì chi phí nhân công và chi phí máy là 239.688.553+90.150.182 = 329.838.735 đồng tính tới thời gian ông A chấm dứt thi công công trình. Tuy nhiên, ông A đã nhận tạm ứng của ông D, bà B số tiền 364.355.000 đồng. Do đó. Ông A phải hoàn trả lại cho ông D, bà B số tiền 34.516.265 đồng như đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên toà là có căn cứ. [2.4] Việc ông D, bà B tự thuê thợ khác thi công hoàn thành công trình không có sự thống nhất với ông A nên không thể lấy giá thuê do ông D, bà B thoả thuận để buộc ông A phải chịu; đồng thời chấm dứt thi công công trình hai bên cũng không có biên bản thanh lý hợp đồng và nhiệm thu khối lượng công việc. Từ đó, kháng cáo của ông Cao Văn A là không có cơ sở chấp nhận một phần; lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An hoàn toàn có căn cứ nên chấp nhận. [3] Về chi phí tố tụng: Khi chấm dứt thực hiện hợp đồng xây dựng ngày 02/02/2021 khi ngừng thi công các bên cũng không nhiệm thu khối lượng công việc dẫn đến phải tiến hành kiểm định là lỗi của hai bên nên mỗi bên chịu một phần hai chi phí kiểm định. [4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần, đồng thời ông Cao Văn A trên 60 tuổi là người cao tuổi nên được miễn theo Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. [5] Các khoản khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị sẽ có hiệu lực sau khi hết thời gian kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên,
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 168/2023/DS-PT Ngày: 12-5-2023 “V/v tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
QUYẾT ĐỊNH: Áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều 293, 296 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Không chấp nhận một phần kháng cáo của ông Cao Văn A. Cải sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 47/2022/DS-ST ngày 21-6-2022 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Long An. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 94, 97, 147, 148, 156, 157, 158, 177, 235, 244, 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 402, 410, 419, 422, 423, 427, 428 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 138, 140, 145 của Luật Xây dựng năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2020; Điều 6, 12, 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Mỹ B về “tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng công trình nhà ở” đối với ông Cao Văn A. [2] Buộc ông Cao Văn A có nghĩa vụ bồi thường cho bà Đinh Mỹ B số tiền 34.516.265 đồng (ba mươi bốn triệu, năm trăm mười sáu nghìn, hai trăm sáu mươi lăm đồng). [3] Về chi phí tố tụng: [3.1] Buộc ông Cao Văn A phải chịu số tiền 11.500.000 đồng (đã nộp xong). [3.2] Buộc bà Đinh Mỹ B và ông Võ Thanh D liên đới chịu 11.500.000 đồng để hoàn trả lại cho ông Cao Văn A đã tạm ứng trước. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với [1] Chấm dứt Hợp đồng xây dựng ngày 02/02/2021 ký kết giữa bà Đinh Mỹ B và ông Cao Văn A. 11 các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. [4] Về án phí sơ thẩm: [4.1] Bà Đinh Mỹ B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà B số tiền 5.000.000 đồng tạm ứng án phí bà B đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007132 ngày 17/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Long An. [4.2] Ông Cao Văn A được miễn nộp tiền án phí. [5] Về án phí phúc thẩm: Miễn cho ông Cao Văn A. [6] Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành ngay sau khi tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Tên bản án là gì Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thu Các Thẩm phán: Ông Dương Ngọc Thành Ông Đặng Văn Những
Ai là nguyên đơn Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Nguyên đơn: 1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1962; 2. Bà Thi Thị Q, sinh năm 1960; Cùng địa chỉ: Ấp 5, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Người đại diện hợp P của ông K và bà Q: Bà Trần Thị Kim G, sinh năm 1994; Địa chỉ: Khu phố 4, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An (Văn bản ủy quyền ngày 25-4-2022).
Ai là bị đơn Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Bị đơn: 1. Bà Thi Thị M1, sinh năm 1962; 2. Bà Thi Thị T, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp 5, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp 5, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp P của bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T và ông Nguyễn Văn P: Luật sư Phạm Thanh Đ, Văn phòng Luật sư Thanh Đ, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. - Người kháng cáo: Bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T - Bị đơn; ông Nguyễn Văn P - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Thùy Dung - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Tiến Đức - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn K và bà Thi Thị Q do bà Trần Thị Kim G đại diện hợp P trình bày: Nhu cầu tưới tiêu của ông K và bà Q là cần thiết. Công văn số 2812/UBND- TNMT ngày 22-9-2021 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ và Công văn số 566/UBND ngày 08-7-2021 của Ủy ban nhân dân xã Mỹ Quý Đông đều xác định ngoài đường kênh tưới nước, tiêu nước tiếp giáp với các thửa đất 1494, 1495, 1482, 1483, 1484, 1485 tờ bàn đồ số 6, xã Mỹ Quý Đông, hiện nay không còn đường tưới nước, tiêu nước nào khác dẫn nước từ kênh Biên Phòng đến các thửa đất của ông K, bà Q. Ông K và bà Q xin đặt cống không ảnh hưởng đến việc canh tác của bà T và bà M1. Ngoài ra, ông K đã tự nguyện bồi thường, chịu chi phí tố tụng và án phí. Trước đây đã có đường nước công cộng, ông K nạo vét đúng quy định nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. - Toàn bộ chi phí liên quan đến việc đặt đường ống cống tưới nước, tiêu nước và nạo vét kênh, dọn vệ sinh sau khi nạo vét kênh do ông K, bà Q chịu. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp P của bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T và ông Nguyễn Văn P trình bày: Nguyên đơn không có nhu cầu mở lối thoát nước vì đã có mua đất khác để làm đường nước. Việc nguyên đơn cho rằng vị trí đất đã mua không thể sử dụng để dẫn nước vào ruộng được do đất của ông K cao nhưng không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền nên chỉ có tính chất tham khảo. Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ và Ủy ban nhân dân xã Mỹ Quý Đông xác nhận ông K không có đường thoát nước nào khác là không đúng. Đào sâu 2m để ông K đặt cống là vi phạm bảo vệ hành lang kênh Biên Phòng. Nguyên đơn yêu cầu được nạo vét theo lòng kênh cũ khoảng 4m sẽ lấn chiếm vào đất hai bên nên đất bị chuyển đổi mục đích phục vụ lợi ích công cộng. Cho nạo vét kênh cũ thì đất vận chuyển đường nào, khu A và B theo Mảnh trích đo nếu đào đặt cống phải bằng cơ giới thì không có đường đi. Do đó, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bà T, bà M1 và ông P, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi K của nguyên đơn.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Bị đơn bà Thi Thị M1 trình bày: Có đường kênh cũ tiếp giáp một bên là các thửa đất 1495, 1482, 1483 thuộc quyền sử dụng đất của bà M1 và bên còn lại là thửa 1484 thuộc quyền sử dụng của bà T. Năm 2000, bà M1 và bà T cho cha ruột là ông Thi Văn L (chết 2018) mượn để làm đường dẫn nước. Khu A, B của Mảnh trích đo 462-2021 là đoạn kênh mới hình thành từ năm 2002 sau khi hoán đổi và lấp một đoạn kênh cũ với mục đích để ông L thuận tiện trong canh tác. Sau khi ông L chết, ông K bà Q tự ý nạo vét đường kênh mà không hỏi ý kiến của bà T, bà M1 nên bà T, bà M1 lấy đất lại và không cho ông K, bà Q nạo vét đường kênh đoạn qua các thửa 1483, 1482, 1495 tờ bản đồ số 6 xã Mỹ Quý Đông do bà M1 đứng tên quyền sử dụng và đoạn qua các thửa đất 1485, 1484 tờ bản đồ số 6 xã Mỹ Quý Đông do bà T đứng tên quyền sử dụng. Bà M1 không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông K, bà Q vì đường kênh thuộc quyền sử dụng đất của bà M1 và bà T; ông K, bà Q nạo vét đường kênh để dẫn nước sẽ ảnh hưởng đến việc canh tác của bà M1 và bà T trên các thửa đất. Bị đơn bà Thi Thị T trình bày: Bà đồng ý toàn bộ phần trình bày của bà M1, không đồng ý cho ông K, bà Q nạo vét đoạn kênh tại khu A, B của Mảnh trích đo và đoạn kênh cũ còn lại tiếp giáp với các thửa 1484, 1482, 1495 vì sẽ bị ảnh hưởng đến canh tác. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn P trình bày: Diện tích đất đường kênh ông K, bà Q đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng đất của vợ chồng ông và bà T. Ông thống nhất toàn bộ phần trình bày của bà T, không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông K, bà Q.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Tại phiên tòa sơ thẩm: Người đại diện hợp P của ông K, bà Q trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nhưng đối với đoạn kênh mới hình thành (Khu A, B của Mảnh trích đo 462- 2021) thì ông K, bà Q đặt 02 đường cống bằng nhựa song song liền kề nhau, đường kính mỗi cống 50cm, chiều sâu từ đáy mỗi cống đến mặt đất của thửa 1483, 1485 (mặt ruộng) là 1,5m đến 1,8m; chiều dài hết khu A, B của Mảnh trích đo số 462-2021 theo cạnh hướng Tây là 10,7m + 3,8m. Sau khi đặt cống thì lấp đất lên phía trên các ống cống cho bằng mặt ruộng của thửa 1483, 1485 để không ảnh hưởng đến việc sản xuất của bà T, bà M1. Đối với đoạn kênh cũ thì yêu cầu được nạo vét theo hiện trạng kênh cũ, chiều sâu 02m, đáy kênh 02m, mặt cắt phía trên 04m, không lấn vào các thửa đất 1482, 1483, 1484, 1485, 1495. Ông K, bà Q tự nguyện trả cho bà M1 và bà T 7.400.000 đồng tương ứng với giá trị 148m2 đất mà ông K, bà Q sẽ đặt đường ống cống nhựa dẫn nước phía dưới lòng đất qua các thửa 1483, 1485. Ông K, bà Q tự nguyện chịu toàn bộ chi phí thẩm định, định giá và án phí trong vụ án.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: [1] Đơn kháng cáo của bị đơn bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qua ông Nguyễn Văn P được làm đúng theo quy định tại các điều 272, 273 và 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2]. Ông K, bà Q và bà M1, bà T, ông P đều thừa nhận có 01 đường kênh dẫn nước theo hướng từ Nam đến Bắc tiếp giáp giữa một bên là các thửa 1495, 1482, 1483, 1485 và một bên là các thửa 1494, 1492, 1484 tờ bản đồ số 6, xã Mỹ Quý Đông tồn tại trước năm 1996. Đến năm 2002 thì được lấp lại đoạn tiếp giáp giữa 02 thửa 1484 và 1485 để mở một đoạn khác (khu A diện tích 32m2 thuộc 01 phần thửa 1485 và khu B diện tích 116m2 thuộc 01 phần thửa 1483) để nối với đoạn kênh cũ dẫn nước từ kênh Biên phòng vào tưới tiêu diện tích đất canh tác phía trong. Đoạn kênh mới hoán đổi để mở (khu A, B của Mảnh trích đo số 462- 2021) được ông Thi Văn L (cha bà M1, bà T) cùng ông K bà Q sử dụng từ năm 2002 đến năm 2019 thì phát sinh tranh chấp vì bà M1, bà T lấp lại đoạn đầu kênh (khu A, B của Mảnh trích đo số 462-2021) và không cho ông K, bà Q nạo vét đoạn kênh cũ để dẫn nước canh tác là phù hợp với nội dung Công văn số 2812/UBND-TNMT ngày 22-9-2021 của UBND huyện Đức Huệ về nguồn gốc đường kênh đang tranh chấp và quá trình các bên sử dụng đường kênh đang tranh chấp để tưới nước, tiêu nước trong canh tác. [3] Ông K, bà Q canh tác các thửa đất số 1688, 1714, 1716, 1721, 1500, 1502, 1687, 1685 tờ bản đố số 6, tọa lạc tại ấp 5, xã Mỹ Quý Đông, đã sử dụng đường tưới nước, tiêu nước bằng đường kênh do nhà nước quản lý từ trước năm 1997 đến năm 2002. Từ năm 2002, các bên tự hoán đổi vị trí để tự hình thành một đoạn kênh mới (khu A, B của của Mảnh trích đo số 462-2021) và tiếp tục sử dụng đến năm 2019. Công văn số 2812/UBND-TNMT ngày 22-9-2021 của Ủy ban nhân dân huyện Đức Huệ và Công văn số 566/UBND ngày 08-7-2021 của Ủy ban nhân dân xã Mỹ Quý Đông đều xác định ngoài đường kênh tưới nước, tiêu nước tiếp giáp với các thửa đất 1494, 1495, 1482, 1483, 1484, 1485 tờ bàn đồ số 6, xã Mỹ Quý Đông, hiện nay không còn đường tưới nước, tiêu nước nào khác dẫn nước từ kênh Biên phòng đến các thửa đất của ông K, bà Q. [4] Đồng thời các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 1482 của bà M1 và thửa 1485 của bà T đều thể hiện rõ có tiếp giáp với kênh và đường mương nước nên bà M1, bà T cho rằng đường kênh dẫn nước thuộc quyền sử dụng của bà M1, bà T là không đúng, không có căn cứ chấp nhận. Chiều ngang đoạn kênh cũ đoạn hẹp nhất là 4m, rộng nhất là 6,8m. Ông K, bà Q yêu cầu nạo vét đường kênh tưới tiêu nước với chiều sâu 02m, đáy kênh 02m, mặt cắt phía trên 04m là trong phạm vi đường kênh cũ, không lấn sang các thửa đất 1482, 1483 của bà M1 và thửa 1484 của bà T và đảm bảo về các thông số theo Công văn số 225/NNPTNT ngày 15-9-2022 của Phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đức Huệ. Việc ông K đặt cống tại khu A và B theo Mảnh trích đo có chiều sâu từ 1,5m đến 1,8m không làm ảnh hưởng đến bảo vệ hành lang kênh Biên Phòng. [5] Ông K, bà Q tự nguyện bồi thường cho bà M1 và bà T 7.400.000 đồng tương đương với giá trị đất đoạn kênh A, B theo kết quả định giá ngày 15-7-2020 cụ thể trả cho bà M1 5.800.000 đồng (116m2 x 50.000 đồng/m2) và trả cho bà T 1.600.000 đồng (32m2 x 50.000 đồng/m2) là phù hợp với Điều 253 Bộ luật Dân sự và đảm bảo quyền lợi cho bà M1, bà T nên Hội đồng xét xử ghi nhận là phù hợp. [6] Bà M1, bà T và ông P kháng cáo cho rằng các thửa ruộng của ông K cách bờ kênh lớn 30m (theo hướng Tây), ông K đã mua phần đất ngang 2m, dài 30m để dẫn nước thông ra kênh. Ông K trình bày, ông mua đường nước này chỉ để tiêu nước vì thấp hơn đất của ông, không tưới nước được do ruộng của ông cao hơn. Ông Nguyễn Văn M trình bày, ông có chuyển nhượng phần đất trũng cho ông K nhưng chỉ để thoát nước, vì đất của ông K nằm trên gò cao. [7] Thấy rằng, như đã nhận định ở trên, đường kênh cũ đã tồn tại trước năm 1996, đến năm 2002 thì được lấp lại đoạn tiếp giáp giữa 02 thửa 1484 và 1485 để mở một đoạn khác là khu A và khu B theo Mảnh trích đo, được ông Thi Văn L (cha bà M1, bà T) cùng ông K bà Q đã sử dụng từ năm 2002 đến năm 2019 thì bị lấp lại. Như vậy, ông K bà Q chỉ yêu cầu được tiếp tục sử dụng đường nước đã tồn tại, đây là lối dẫn nước thích hợp, thuận tiện cho việc tưới, tiêu của ông K (không phải xin mở đường tưới tiêu mới). Hơn nữa, tại khu A và khu B theo Mảnh trích đo, ông K, bà Q phải đặt đường ống cống với chiều sâu cách mặt ruộng từ 1,5 đến 1,8m để làm đường tưới nước, tiêu nước trong canh tác nên việc bà M1, bà T và ông P cho rằng ông K đã mua phần đất ngang 2m, dài 30m để dẫn nước thông ra kênh để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông K và bà Q là không có cơ sở. [8] Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với Điều 253 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T, ông Nguyễn Văn P kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm. [9] Như đã nhận định trên, xét thấy lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp P của bà Thi Thị M1, bà Thi Thị T và ông Nguyễn Văn P đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận. [10] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà M1, bà T và ông P là có căn cứ. [11] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bà T và ông P mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Bà M1 thuộc trường hợp người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên được miễn.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 107/2023/DS-PT Ngày: 23-3-2023 V/v “Tranh chấp quyền tưới nước, tiêu nước trong canh tác”
Tên bản án là gì Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:Bà Trịnh Thị Phúc Các Thẩm phán: Bà Lê Thị Kim Nga Bà Phùng Thị Cẩm Hồng
Ai là nguyên đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H1, sinh năm 1959; Đăng ký hộ khẩu: 495/36 Dương Bá T, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: 769/2A Phạm Thế H2, Phường Y, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Huỳnh Tuấn K, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp 3, xã Long A, huyện Cần Đ, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 19/11/2021.
Ai là bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bị đơn: 1. Ông Mai Văn L, sinh năm 1963; 2. Bà Lê Thị H3, sinh năm 1964; Cùng địa chỉ: ấp 4, xã Hựu T1, huyện Đức H, tỉnh Long A. Người đại diện theo ủy quyền của ông L, bà H3: Bà Nguyễn Thị Ngọc S, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp 2, xã Thạnh H4, huyện Bến L1, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 20/6/2022.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A tham gia phiên tòa: Bà Trần Thị Thùy Dung - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Nam - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Nguyên đơn: Bà Lê Thị H1, sinh năm 1959; Đăng ký hộ khẩu: 495/36 Dương Bá T, Phường Q, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: 769/2A Phạm Thế H2, Phường Y, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Huỳnh Tuấn K, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp 3, xã Long A, huyện Cần Đ, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 19/11/2021.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Bị đơn: 1. Ông Mai Văn L, sinh năm 1963; 2. Bà Lê Thị H3, sinh năm 1964; Cùng địa chỉ: ấp 4, xã Hựu T1, huyện Đức H, tỉnh Long A. Người đại diện theo ủy quyền của ông L, bà H3: Bà Nguyễn Thị Ngọc S, sinh năm 1995. Địa chỉ: ấp 2, xã Thạnh H4, huyện Bến L1, tỉnh Long A. Giấy ủy quyền ngày 20/6/2022.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. [2] Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. [3] Các đương sự trình bày thống nhất về việc ông L, bà H3 bán cho bà H1 01 nền tái định cư ở dự án Tân Tạo với giá 60.000.000đồng, việc mua bán nền tái định cư chỉ thỏa thuận miệng, không lập văn bản. Hai bên thống nhất thời gian bà H1 đã giao cho vợ chồng ông L, bà H3 số tiền 60.000.000đồng là ngày 01/02/2008. [4] bà H1 và ông L bà H3 xác định tại thời điểm hai bên thỏa thuận mua bán lô nền tái định cư thì lúc đó bên ông L, bà H3 chưa được cấp lô nền tái định cư. bà H1 là bên mua cũng không tìm hiểu kỹ lô nền cần mua, do đó hai bên đều có lỗi ngang nhau. Bên ông L, bà H3 trình bày hiện nay vẫn chưa được cấp lô nền tái định cư. Do đó, hợp đồng mua bán lô nền tái định cư giữa bà H1 với bên ông L, bà H3 vô hiệu về hình thức và nội dung. bà H1 cho rằng ông L đồng ý trả cho bà 200.000.000đồng theo biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 của Ủy ban nhân xã Hựu T1 xã Hựu T1. Xét thấy, tại Biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 của Ủy ban nhân xã Hựu T1 thể hiện nội dung ông L đồng ý trả cho bà H1 số tiền 200.000.000đồng nếu không đồng ý thì đề nghị chuyển về trên xem xét giải quyết, bà H3 chỉ đồng ý trả lại cho bà H1 số tiền 60.000.000đồng. Tuy nhiên, cả ông L và bà H3 đều không ký tên xác nhận trong biên bản này. Do đó, không có cơ sở xác định ông L đồng ý trả cho bà H1 200.000.000đồng. Mặc dù, ông L, bà H3 thừa nhận có nhận của bà H1 60.000.000đồng vào ngày 01/02/2008, nhưng đây không phải là tiền vay, các bên đều xác định đây là tiền mua bán lô nền tái định cư. Như đã nhận định tại phần trên, việc chuyển nhượng đất (lô nền tái định cư) bị vô hiệu về hình thức và nội dung nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tại thời điểm giao kết. ông L, bà H3 thừa nhận có nhận của bà H1 60.000.000đồng nên phải hoàn trả lại cho bà H1. Do đó, án sơ thẩm buộc ông L và bà H3 phải hoàn trả cho bà H1 60.000.000đồng là có căn cứ. Do ông L và bà H3 không được cấp lô nền tái định cư nên không thể định giá đất để tính thiệt hại. [5] bà H1 trình bày đã nhiều lần yêu cầu ông L bà H3 trả tiền nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh thời gian bà yêu câu trả tiền là ngày nào. Căn cứ vào biên bản hòa giải ngày 02/7/2019 thể hiện bà H1 có yêu cầu ông L bà H3 trả tiền nhưng đến nay ông L bà H3 không trả. Như vậy, ngày 02/7/2019 được xác định là ngày bà H1 yêu cầu nhưng ông L bà H3 không thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Do đó, tiền lãi chậm trả được tính từ ngày 02/7/2019 theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 là 0,83%/tháng. Từ ngày 02/7/2019 đến ngày Tòa án xét xử phúc thẩm là 05/12/2022 là 3 năm 5 tháng 3 ngày. Tiền lãi được tính như sau: 60.000.000đ x 0,83% x 3 năm 5 tháng 3 ngày = 20.716.800đồng. Tổng cộng buộc ông L bà H3 phải trả cho bà H1 số tiền: 60.000.000đồng + 20.716.800đồng = 80.716.800đồng. [6] Từ những nhận định trên, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H1, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông L bà H3, chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A, sửa một phần bản án sơ thẩm. [7] Về án phí dân sự phúc thẩm: bà H1, ông L và bà H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận theo Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuy nhiên, bà H1 được miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 403/2022/DS-PT Ngày: 19-12-2022 V/v Tranh chấp về đòi lại tài sản
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị H1; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 126/QĐ-VKS-DS ngày 07/9/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long A. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 118/2022/DS-ST ngày 10 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức H, tỉnh Long A. Căn cứ vào các điều 26, 35, 39, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 166, 275, 280, 468 của Bộ luật Dân sự; các điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc đòi tài sản đối với ông Mai Văn L và Lê Thị H3. 2. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 80.716.800đồng. 3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự. 4. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới hoàn trả cho bà Lê Thị H1 số tiền 119.283.200đồng. 5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị H1 được miễn án phí do thuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí. Buộc ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 phải liên đới chịu 4.035.800đồng án phí dân sự sơ thẩm. 6. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Mai Văn L và bà Lê Thị H3 mỗi người phải chịu 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm ông L và bà H3 nộp theo các biên lai thu tạm ứng án phí số 0011611, ngày 16/8/2022 và biên lai thu số 0007086 ngày 27/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức H, tỉnh Long A. 7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 8. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Tên bản án là gì Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà NTMH Các Thẩm phán: Ông TVQ Bà HTHV
Ai là nguyên đơn Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nguyên đơn: Bà PTKY, sinh năm 1975. Địa chỉ: Số 203/42C, quốc lộ 62, phường 0 thành phố T, tỉnh L Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông LVL, sinh năm 1985. Địa chỉ: ấp Bình Hòa A, xã BT, huyện CT, tỉnh TG (văn bản ủy quyền ngày 11 tháng 8 năm 2022).
Ai là bị đơn Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Bị đơn: Bà NTT, sinh năm 1947. Địa chỉ: Số 280/20/6, quốc lộ 62, phường O, thành phố T, tỉnh L. - Người kháng cáo: Bà NTT.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L tham gia phiên tòa: Ông HPK - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Thư ký phiên tòa: Bà NTMP - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh L
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Bị đơn bà NTT trình bày: Trước đây bà có vay của bà Yến số tiền 5.000.000 đồng và có đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Yến giữ để làm tin. Sau đó bà tiếp tục vay của bà Yến nhiều lần với tổng số tiền 50.000.000 đồng. Hai bên không có thỏa thuận thời hạn trả, lãi suất là 5%/tháng, sau khi vay tiền thì hằng ngày bà phải trả lãi cho bà Yến tiền lãi bằng 05 tờ vé số. Sau đó con bà biết sự việc bà cầm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền bà Yến nên đến gặp bà Yến và trả bà Yến số tiền 20.000.000 đồng và chuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại. Số tiền còn lại mà bà nợ bà Yến là 30.000.000 đồng, sau đó bà tiếp tục vay bà Yến 02 lần, mỗi lần 3.000.000 đồng. Hiện tại bà xác định còn nợ bà Yến số tiền 36.000.000 đồng, mỗi ngày bà vẫn đóng lãi 05 tờ vé số cho bà Yến, đến khi dịch Covid xảy ra thì bà ngưng không đóng lãi cho bà Yến cho đến nay. Bà thừa nhận chữ viết và chữ ký trong giấy nợ ngày 19/4/2021 là của bà. Lý do viết giấy nợ ngày 19/4/2021 là do bà Yến yêu cầu bà viết và bà Yến nói số tiền 180.000.000 đồng là tiền nợ gốc và tiền lãi. Nay bà Yến yêu cầu bà trả số tiền 180.000.000 đồng bà không đồng ý. Bà chỉ đồng ý trả số tiền 36.000.000 đồng tiền gốc và đồng ý trả 14.000.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 50.000.000 đồng. Do hoàn cảnh khó khăn, gia đình hiện tại là hộ nghèo nên bà xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2022/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L đã căn cứ khoản 3 Điều 26, các Điều 35, 39, 147, 227, 228, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà NTT thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. [2] Xét kháng cáo của bà NTT, thấy rằng: [2.1] Bà Yến khởi kiện yêu cầu bà Tuyết trả số tiền vay 180.000.000 đồng, bà Tuyết chỉ thừa nhận vay của bà Yến số tiền 36.000.000 đồng, bà Tuyết đồng ý trả số tiền vay 36.000.000 đồng và số tiền lãi 14.000.000 đồng. [2.2] Căn cứ “giấy mượn tiền” ngày 19/4/2021 có nội dung: “...tôi tên Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1947... Tôi có mượn của cô Phan Thị Kim Yến ...số tiền 180.000.000đ...”. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Tuyết thừa nhận chữ ký và chữ viết tại giấy mượn tiền là do bà viết và ký tên nhưng bà Tuyết chỉ thừa nhận vay của bà Yến số tiền 36.000.000 đồng, không có vay số tiền 180.000.000 đồng, số tiền 180.000.000 đồng là do bà Yến cộng tiền vốn và tiền lãi. Tuy nhiên bà Tuyết không có chứng cứ gì chứng minh nên lời trình bày của bà Tuyết không có căn cứ chấp nhận. Căn cứ nội dung của “giấy mượn tiền” ngày 19/4/2021, có đủ cơ sơ xác định bà NTT có vay của bà PTKY số tiền 180.000.000 đồng. [2.3] Bà NTT chỉ đồng ý trả cho bà Yến số tiền vay 36.000.000 đồng và 14.000.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 50.000.000 đồng và xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy, yêu cầu của bà Tuyết không được bà Yến đồng ý nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận. [3] Theo đơn khởi kiện, bà Yến yêu cầu bà Tuyết trả số tiền lãi là 48.000.000 đồng. Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Văn Lâm đã rút lại yêu cầu này, chỉ yêu cầu bà bà Tuyết trả tiền vốn vay 180.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của bà Yến là phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự. [4] Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Kim Yến buộc bà Nguyễn Thị Tuyết phải có nghĩa vụ trả số tiền vốn vay là 180.000.000 đồng là có căn cứ. [5] Xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà NTT không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. [6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà NTT là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. [7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà NTT là người cao tuổi (trên 60 tuổi) thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016. [8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà NTT là người cao tuổi nên miễn cho bà Tuyết án phí dân sự phúc thẩm.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: [1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà NTT thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. [2] Xét kháng cáo của bà NTT, thấy rằng: [2.1] Bà Yến khởi kiện yêu cầu bà Tuyết trả số tiền vay 180.000.000 đồng, bà Tuyết chỉ thừa nhận vay của bà Yến số tiền 36.000.000 đồng, bà Tuyết đồng ý trả số tiền vay 36.000.000 đồng và số tiền lãi 14.000.000 đồng. [2.2] Căn cứ “giấy mượn tiền” ngày 19/4/2021 có nội dung: “...tôi tên Nguyễn Thị Tuyết, sinh năm 1947... Tôi có mượn của cô Phan Thị Kim Yến ...số tiền 180.000.000đ...”. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Tuyết thừa nhận chữ ký và chữ viết tại giấy mượn tiền là do bà viết và ký tên nhưng bà Tuyết chỉ thừa nhận vay của bà Yến số tiền 36.000.000 đồng, không có vay số tiền 180.000.000 đồng, số tiền 180.000.000 đồng là do bà Yến cộng tiền vốn và tiền lãi. Tuy nhiên bà Tuyết không có chứng cứ gì chứng minh nên lời trình bày của bà Tuyết không có căn cứ chấp nhận. Căn cứ nội dung của “giấy mượn tiền” ngày 19/4/2021, có đủ cơ sơ xác định bà NTT có vay của bà PTKY số tiền 180.000.000 đồng. [2.3] Bà NTT chỉ đồng ý trả cho bà Yến số tiền vay 36.000.000 đồng và 14.000.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 50.000.000 đồng và xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng. Xét thấy, yêu cầu của bà Tuyết không được bà Yến đồng ý nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận. [3] Theo đơn khởi kiện, bà Yến yêu cầu bà Tuyết trả số tiền lãi là 48.000.000 đồng. Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lê Văn Lâm đã rút lại yêu cầu này, chỉ yêu cầu bà bà Tuyết trả tiền vốn vay 180.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này của bà Yến là phù hợp với quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự. [4] Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Kim Yến buộc bà Nguyễn Thị Tuyết phải có nghĩa vụ trả số tiền vốn vay là 180.000.000 đồng là có căn cứ. [5] Xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà NTT không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. [6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà NTT là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. [7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà NTT là người cao tuổi (trên 60 tuổi) thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016. [8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà NTT là người cao tuổi nên miễn cho bà Tuyết án phí dân sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên;
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 85/2023/DS-PT Ngày: 14-3-2023 V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bà NTT. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 91/2022/DS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố T tỉnh L Căn cứ khoản 3 Điều 26, các Điều 35, 39, 147, 227, 228, 244, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà PTKY đối với bà Nguyễn Thị Tuyết về tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Buộc bà NTT phải có nghĩa vụ trả cho bà PTKY số tiền vốn vay 180.000.000 đồng (Một trăm tám mươi triệu đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. 2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà PTKIY về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Tuyết trả số tiền lãi là 48.000.000 đồng (Bốn mươi tám triệu đồng). 3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà PTKY không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Yến số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.700.000 đồng (Năm triệu, bảy trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001856 ngày 03/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh Long An. Miễn cho bà NTT án phí dân sự sơ thẩm. 4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn cho bà NTT án phí dân sự phúc thẩm. 5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Tên bản án là gì Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà NTMH Các Thẩm phán: Ông DVN Bà PTCH
Ai là nguyên đơn Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn: Ông NPDT, sinh năm 1986. Địa chỉ: Khối 15, phường HHT, thành phố V, tỉnh NA. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà LTC, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số nhà 16F1, đường NTH, phường 0, thành phố T, tỉnh L (văn bản ủy quyền ngày 18/9/2018).
Ai là bị đơn Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bị đơn: Ông BVBB, sinh năm 1961. Địa chỉ: Ấp Bình Tây, xã T, huyện TT, tỉnh L. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông DHC, sinh năm 1956; Địa chỉ: Số nhà 141/8, đường NTB, phường 0, thành phố TA, tỉnh L (văn bản ủy quyền ngày 17/7/2019).
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông LNH – Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thư ký phiên tòa: Bà NTMP - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
1. Nguyên đơn: Ông NPDT, sinh năm 1986. Địa chỉ: Khối 15, phường HHT, thành phố V, tỉnh NA. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà LTC, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số nhà 16F1, đường NTH, phường 0, thành phố T, tỉnh L (văn bản ủy quyền ngày 18/9/2018).
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bị đơn: Ông BVBB, sinh năm 1961. Địa chỉ: Ấp Bình Tây, xã T, huyện TT, tỉnh L. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông DHC, sinh năm 1956; Địa chỉ: Số nhà 141/8, đường NTB, phường 0, thành phố TA, tỉnh L (văn bản ủy quyền ngày 17/7/2019).
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư TVH- Đoàn Luật sư tỉnh L.
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: [1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông NPDT thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về thủ tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông LHH, ông NTP đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắn mặt không có lý do. Ông NVT, bà PTT, Văn phòng công chứng Bến Lức, Văn phòng công chứng Thủ Thừa, Văn phòng công chứng PTH đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này. [3] Xét kháng cáo của ông NPDT, thấy rằng: [3.1] Vào ngày 19/01/2017 ông BVBB, bà NTB và ông NTPcó ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 127, loại đất ở tại nông thôn, tờ bản đồ số 11, diện tích 530,5m2 đất tọa lạc ấp Bình Tây, xã Mỹ Bình (nay là xã TB), huyện Tân Trụ, tỉnh LA, đến ngày 21/3/2017 các bên lập hợp đồng hủy bỏ hợp đồng trên. Vào ngày 09/5/2017 ông Bé Ba, bà Bồng tiếp tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 127 cho ông NVT. Ngày 22/8/2017 ông Thiện chuyển nhượng thửa đất trên cho ông LHH. Ngày 13/3/2018, ông Hạnh tiếp tục chuyển nhượng thửa đất trên cho ông NPDT, ông Tú đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 04/5/2018. [3.2] Theo đơn khởi kiện ông Tú yêu cầu ông Bé Ba cùng những người sống trên thửa đất gồm bà NTB, ông BTC, bà LTHM và ông BQT tháo dỡ nhà để giao thửa đất số 127, tờ bản đồ số 11, diện tích đo đạc thực tế là 574,0m2, loại đất ONT, tọa lạc ấp Bình Tây, xã Tân Bình, huyện TT, tỉnh LA. Ông Bé Ba và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm bà Bồng, ông Cường, bà Mai, ông Thịnh không đồng ý giao thửa đất số 127 cho ông Tú, yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Bé Ba, bà Bồng với ông Ngô Văn Thiện, giữa ông NVT với ông LHH và giữa ông LHH với ông NPDT đối với thửa đất số 127. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tú, chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Bé Ba, tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Bé Ba, bà Bồng với ông NVT; giữa ông NVT với ông LHH và giữa ông LHH với ông NPDT vô hiệu. Buộc ông NPDT trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 993807 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ngày 26/10/2015 và được điều chỉnh ngày 12/5/2017, ngày 30/8/2017, ngày 04/5/2018 đối với thửa đất số 127, tờ bản đồ 11, loại đất ONT, diện tích đo đạc thực tế 574,0m2, tọa lạc ấp Bình Tây, xã Mỹ Bình (nay là xã Tân Bình), huyện Tân Trụ, tỉnh Long An cho ông Bùi Văn Bé Ba và bà Nguyễn Thị Bồng. [3.3] Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn trình bày sau khi được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 24/6/2018 ông Tú đã vay tiền của ông TVH (sinh năm 1989, địa chỉ cư trú: Số 1135/90 đường Huỳnh Tấn Phát, Phường PN, Quận 0, Thành phố HCM) số tiền 300.000.000 đồng và thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huy. Tại phiên tòa ông Huy không đồng ý trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Tú, khi nào ông Tú trả xong tiền cho ông Huy thì ông Huy mới đồng ý. Thấy rằng trong quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm, phía nguyên đơn không trình bày vấn đề này tại phiên tòa phúc thẩm mới trình bày. Việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông NPDT trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Ba và bà Bồng nhưng hiện nay ông TVH đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên xét thấy cần thiết phải đưa ông TVH vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, do đó cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên hủy bản án dân sự sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại. Ngoài ra, tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả đất, trường hợp Tòa án không buộc bị đơn trả đất cho ông Tú, tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bị đơn phải trả lại cho ông Tú số tiền 300.000.000 đồng tiền mua đất và tiền lãi theo quy định của pháp luật. Xét thấy, trong quá trình giải quyết tại Tòa án cấp sơ thẩm nguyên đơn không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, yêu cầu này chưa được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết nên cấp phúc thẩm không thể xem xét yêu cầu này của nguyên đơn. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xem xét yêu cầu của nguyên đơn trong cùng vụ án mới giải quyết triệt để được vụ án nên Tòa án cấp sơ thẩm cần làm rõ để giải quyết theo quy định của pháp luật. [4] Xét kháng cáo của ông NPDT là có căn cứ nên chấp nhận. [5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án dân sự sơ thẩm là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. [6] Xét đề nghị của Luật sư không phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. [7] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi vụ án được giải quyết lại. [8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông NPDT không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 98/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông NPDT. 1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2022/DS-ST ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện tt, tỉnh LA. 2. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án. 3. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Được quyết định khi vụ án được giải quyết lại. 4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông NPDYT không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông NPDT số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007404 ngày 13/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT, tỉnh LA. 5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Tên bản án là gì Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà H Các Thẩm phán: Ông N Bà H
Ai là nguyên đơn Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nguyên đơn: Ông T, sinh năm 1952. Bà T, sinh năm 1953. Cùng địa chỉ: Số 86, đường Võ Văn Môn, T Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Khắc Điệp, sinh năm 1977. Địa chỉ: Số 396, đường Nguyễn Đình Chiểu, LA(văn bản ủy quyền ngày 16/3/2023).
Ai là bị đơn Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Bị đơn: 2.1. Ông NVN, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số 88/4A, đường Võ Văn Môn, P Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà NTTN, sinh năm 1989. Địa chỉ: Số 88/4A, đường Võ Văn Môn, phường 4, L (văn bản ủy quyền ngày 04/4/2019). 2.2. Bà LTT, sinh năm 1963 (đã chết) Địa chỉ: Số 88/4A, đường Võ Văn Môn, T, tỉnh Long An. Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thị Tuyết: Ông m, sinh năm 1965. Bà n, sinh năm 1989. Bà n, sinh năm 1998. Ông n, sinh năm 1996. Cùng địa chỉ: Số 88/4A, đường Võ Văn Môn, P
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân L tham gia phiên tòa: Ông Huỳnh PhạmKhánh -Kiểmsátviên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thư ký phiên tòa: Bà P - Thư ký Tòa án nhân dân L
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 12 năm 2008 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Toàn trình bày: Năm 2011, bà Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh thỏa thuận là bà chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh quyền sử dụng đất tại một phần thửa đất số 38, tờ bản đồ số 2-7, diện tích 212m2, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An do bà Nguyễn Thị Kim Toàn là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y352458, cấp ngày 24/11/2003 với giá là 380.000.000 đồng. Hai bên có lập “Giấy mua bán đất” bằng giấy tay, không có công chứng. Khi thỏa thuận chuyển nhượng bà Trinh đã biết là quyền sử dụng đất của bà đang thế chấp tại Ngân hàng. Bà Trinh đưa trước cho bà số tiền 30.000.000 đồng. Bà có đưa số tiền này cho con bà là bà Trúc trả vào Ngân hàng. Bà thỏa thuận, khi nào bà trả nợ Ngân hàng xong, lấy giấy chứng nhận ra thì bà Trinh sẽ trả toàn bộ số tiền còn lại để bà làm thủ tục tách thửa, sang tên cho bà Trinh. Lúc này, bà Trinh nói không có chỗ ở nên bà mới giao đất cho gia đình bà Trinh cất nhà ở. Tuy nhiên, do bà không có đủ tiền trả nợ Ngân hàng nên có yêu cầu bà Tuyết và bà Trinh thanh toán cho bà số tiền còn lại là 350.000.000 đồng và bà mượn thêm số tiền 120.000.000 đồng để đủ tiền trả vào Ngân hàng rút sổ ra, nhưng bà Trinh và bà Tuyết không đồng ý. Từ đó, thủ tục kéo dài không thực hiện được. Năm 2014, bà Trinh chết. Đến năm 2017, bà đã tự trả tiền vào Ngân hàng xong và có báo cho ông Năm biết. Ông Thông và bà có gặp và thỏa thuận với ông Năm là bà sẽ trả lại 30.000.000 đồng và bồi thường công trình xây đựng trên đất là 300.000.000 đồng. Ông Năm hứa về bàn lại với gia đình qua Tết sẽ trả lời nhưng sau đó thì ông Năm né tránh không trả lời. Bà xác định quyền sử dụng thửa đất số 38, tờ bản đồ 2-7, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An là tài sản chung của hộ gia đình gồm bà, ông Thông và các ông, bà gồm: bà Nguyễn Thị Thanh Thảo, ông Nguyễn Toàn Thiện, bà Lê Thị Trà My, bà Nguyễn Thị Thu Trúc, ông Nguyễn Trí Thức, bà Nguyễn Thị Thiên Thanh, bà Nguyễn Thị Diệu Linh, ông Nguyễn Trọng Trí và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình năm 2003. Lúc đó, do con bà thiếu tiền trả Ngân hàng nên bà tự ý quyết định mà không thông báo cho các thành viên trong hộ biết. Nay bà khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đụng đất giữa bà và bà Trinh là vô hiệu. Yêu cầu người thừa kế của bà Trinh là ông Năm và những người đang sinh sống trên đất là ông Hải, bà Nhung, bà Ngân phải giao trả quyền sử dụng 212,8 m2 đất cho hộ gia đình. Các thành viên trong hộ đồng ý trả lại số tiền đưa trước 30.000.000 đồng cho ông Năm, ông Hải, bà Nhung, bà Ngân. Các thành viên trong hộ đồng ý bồi thường công trình xây dựng trên đất và cây trồng trên đất cho ông Năm, ông Hải, bà Nhung, bà Ngân theo chứng thư thẩm định giá là 728.000.000 đồng. * Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Thông trình bày: Ông Thông xác định quyền sử dụng thửa đất số 38, tờ bản đồ 2-7, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An là tài sản chung của hộ gia đình và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình năm 2003. Việc bà Toàn thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông hoàn toàn không biết. Ông không đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất này. Đến năm 2017, ông mới biết và có thỏa thuận với ông Năm là ông và bà Toàn sẽ trả lại 30.000.000 đồng và bồi thường công trình xây đựng trên đất là 300.000.000 đồng. Ông Năm hứa về bàn lại với gia đình qua Tết sẽ trả lời nhưng sau đó thì ông Năm né tránh không trả lời. Ông Năm và bà Tuyết cho rằng nhiều lần qua gặp ông và bà Toàn để yêu cầu tiến hành thủ tục sang tên là không đúng sự thật. Ông thống nhất với yêu cầu của bà Toàn. Ông hoàn toàn không đồng ý với việc tự ý thỏa thuận chuyển nhượng của bà Toàn nên ông xác định không có đến chỉ ranh giới để phía ông Năm, bà Tuyết xây dựng. Việc ông Năm, bà Tuyết xây dựng công trình trên đất ông không biết do thời gian đó ông đi làm xa, khi về công trình đã xây dựng xong. Ông xác định ông Năm và bà Tuyết cất nhà trên đất không được sự đồng ý của thành viên trong hộ gia đình nên việc họ quản lý, sử dụng đất này là không hợp pháp. Vì vậy, ông và bà Toàn yêu cầu ông Năm và các con di dời trả lại quyền sử dụng đất trên cho hộ gia đình của ông. * Lời trình bày bà Lê Thị Tuyết Nhung, đại diện bị đơn, người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của bị đơn, đại diện người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có nội dung như sau: Ông Năm và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Tuyết thống nhất với lời trình bày của bà Toàn, ông Thông là bà Toàn, ông Thông và bà Trinh thỏa thuận là bà Toàn và ông Thông chuyển nhượng cho bà Trinh quyền sử dụng đất tại một phần thửa đất số 38, tờ bản đồ số 2-7, diện tích 212m2, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An với giá là 380.000.000 đồng. Bà Tuyết và bà Trinh có đến xem đất nhưng không biết quyền sử dụng đất bà Toàn và ông Thông đang thế chấp tại Ngân hàng. Bà Trinh đưa trước cho bà Toàn và ông Thông số tiền 30.000.000 đồng. Khoảng 01 tuần sau, bà Tuyết và bà Trinh có đến gặp bà Toàn và ông Thông để giao số tiền còn lại và yêu cầu làm thủ tục tách thửa, lúc này bà Toàn và ông Thông mới thông báo là quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Ngân hàng. Lúc này, bà Toàn và bà Trinh mới lập giấy bán đất, theo đó bà Toàn hứa sẽ thanh toán vào Ngân hàng để lấy giấy chứng nhận ra làm thủ tục tách thửa. Chính vì vậy, bà Toàn và ông Thông đã tự nguyện giao quyền sử dụng đất cho bà Trinh và ông Năm, bà Tuyết quản lý, sử dụng và xây dựng nhà ở. Ông Năm và bà Tuyết là người xây dựng căn nhà số 88/4A Võ Văn Môn, phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Việc xây dựng công trình hoàn tất trong năm 2011, bà Toàn và ông Thông không có tranh chấp hay khiếu nại gì. Sau khi ký giấy mua đất, bà Toàn và ông Thông không đến Ngân hàng để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm thủ tục tách thửa, sang tên theo quy định. Ông Năm, bà Tuyết nhiều lần đề nghị bà Toàn và ông Thông làm thủ tục chuyển nhượng nhưng bà Toàn và ông Thông không hợp tác với lý do không có tiền trả Ngân hàng. Bà Toàn có hỏi mượn tiền ông Năm và bà Tuyết với số tiền gấp đôi khoản tiền đất còn lại nhưng ông Năm và bà Tuyết không đồng ý làm giấy nợ, nên ông Năm và bà Tuyết không đồng ý. Sau đó ông Năm và bà Tuyết có nhiều lần yêu cầu bà Toàn làm thủ tục sang tên nhưng bà Toàn nói đã giao đất cho ở thì yên tâm mà ở. Đến năm 2014, bà Trinh chết. Bà Trinh khi còn sống có tổ chức đám cưới với ông TEESHING HWA nhưng không có đăng ký kết hôn và cũng không có con chung. Cha bà Trinh là ông Năm, mẹ bà Trinh là bà Tuyết. Bà Tuyết chết ngày 21/7/2021. Cha mẹ bà Tuyết đã chết trước khi bà Tuyết chết, bà Tuyết có chồng là ông Năm và 03 người con là bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải. Ông Năm và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Tuyết không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Năm và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Tuyết yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Ông Năm và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng bà Tuyết sẽ thanh toán số tiền còn lại là 350.0000.000 đồng cho bà Toàn và ông Thông. Trường hợp ông Thông, bà Toàn không đồng ý theo giá ban đầu thì đề nghị Tòa án áp dụng giá theo Quyết định Ủy ban nhân dân tỉnh Long An quy định về giá ở thời điểm hiện tại để bồi thường. Hiện nay, ông Năm và 03 người con là bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải đang sinh sống trên đất. Ông Năm, bà Ngân, ông Hải và bà không đồng ý di dời trả lại quyền quản lý, sử dụng vì khi ông Năm và bà Tuyết cất nhà là được sự đồng ý của ông Thông và bà Toàn. Khi bà Trinh và bà Tuyết đến nhà bà Toàn thỏa thuận làm giấy chuyển nhượng thì có ông Thiện, bà Thảo, bà Thanh cũng ở đó. Khi bà Tuyết và ông Năm cất nhà thì ông Thông có qua chỉ ranh giới cho bà Tuyết và ông Năm. Do hợp đồng các bên không thỏa thuận thời gian kết thúc hợp đồng, chỉ thỏa thuận khi nào bà Toàn lấy giấy chứng nhận ra thì tiếp tục thực hiện hợp đồng nên hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Hiện nay, ông Năm và bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung chỉ có 01 nơi ở duy nhất là quyền sử dụng đất đang tranh chấp nên yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất này cho gia đình bà. * Bà Nguyễn Thị Thanh Thảo, ông Nguyễn Toàn Thiện, bà Lê Thị Trà My, bà Nguyễn Thị Thu Trúc, ông Nguyễn Trí Thức, bà Nguyễn Thị Thiên Thanh, bà Nguyễn Thị Diệu Linh, ông Nguyễn Trọng Trí thống nhất trình bày: Các ông, bà xác định thống nhất với bà Toàn và ông Thông xác định quyền sử dụng thửa đất số 38, tờ bản đồ 2-7, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An là tài sản chung của hộ gia đình và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình năm 2003. Việc bà Toàn thỏa thuận chuyển nhượng một phần thửa đất này cho bà Trinh, các ông, bà hoàn toàn không biết. Các ông, bà có đăng ký hộ khẩu tại số 86, đường Võ Văn Môn, phường 4, thành phố Tân An nhưng một số thành viên đi làm xa, không về thường xuyên, số còn lại không để ý nên khi gia đình bà Trinh, ông Năm, bà Tuyết cất nhà trên đất các ông, bà không biết cho đến công trình hoàn thiện mới biết. Các ông, bà thống nhất với yêu cầu của bà Toàn và ông Thông yêu cầu người thừa kế của bà Trinh là ông Năm, bà Tuyết và những người đang sinh sống trên đất là ông Hải, bà Nhung, bà Ngân phải giao trả quyền sử dụng 212,8 m2 thuộc một phần thửa đất số 38, tờ bản đồ 2-7, tọa lạc tại phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An cho hộ gia đình. Các thành viên trong hộ đồng ý trả lại số tiền đưa trước 30.000.000 đồng cho ông Năm và bà Tuyết. Các ông, bà đồng ý bồi thường công trình xây dựng trên đất và cây trồng trên đất cho ông Năm, bà Tuyết theo chứng thư thẩm định giá là 728.000.000 đồng. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2022/DS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An đã áp dụng các Điều 26, 35, 39, 40, 147, 157, 165, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 109, 122, 127, 128, 134, 137, 411, 689, 692, 697, 698 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 127 Luật Đất đai năm 2003; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: [1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Văn Thông, bà Nguyễn Thị Kim Toàn, ông Nguyễn Văn Năm thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về thủ tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thanh Thảo, ông Nguyễn Toàn Thiện, bà Lê Thị Trà My, bà NguyễnThịThuTrúc, ôngNguyễnTríThức,bàNguyễnThịThiênThanh,bà Nguyễn Thị Diệu Linh, ông Nguyễn Trọng Trí đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này. [3] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn Thông, bà Nguyễn Thị Kim Toàn, ông Nguyễn Văn Năm, thấy rằng: [3.1] Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày thồng nhất: Vào năm 2011, bà Nguyễn Thị Kim Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh có thỏa thuận về việc chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất thửa số 38, tờ bản đồ 2-7, diện tích 212 m2, tọa lạc phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An (diện tích thực tế là 212,8m2 theo mảnh trích đo bản đồ địa chính số 1710-2022 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố Tân An duyệt ngày 23/06/2022 và bản phân khu của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú lập) do bà Nguyễn Thị Kim Toàn là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y352458, cấp 10 ngày 24/11/2003 với giá chuyển nhượng là 380.000.000 đồng. Hai bên có lập “Giấy mua bán đất” bằng giấy viết tay, không có công chứng. Bà Trinh có đưa trước cho bà Toàn số tiền là 30.000.000 đồng. Theo “giấy mua bán đất” thì số tiền còn lại là 350.000.000 đồng các bên thỏa thuận khi bà Toàn “nộp Ngân hàng chuộc chủ quyền thì bên mua phải chồng đủ tại Ngân hàng để lấy chủ quyền cắt đất ra”. Tuy nhiên, sau đó các bên không thực hiện được thỏa thuận nên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa thực hiện xong. [3.2] Giao dịch giữa bà Nguyễn Thị Kim Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh được ký vào năm 2011. Tuy nhiên hợp đồng chưa được thực hiện xong. Theo quy định tại Điều 688 Bộ luật dân sự 2015: “Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này” nên Tòa án áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết. [3.3] Về hình thức của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên chỉ làm giấy viết tay không có công chứng hoặc chứng thực theo quy định tại các Điều 117 của Bộ luật Dân sự 2015, có cơ sở xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Toàn và bà Trinh không tuân thủ về hình thức. [3.4] Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Y352458, cấp ngày 24/11/2003 đối với quyền sử dụng đất thửa số 38, tờ bản đồ số 2-7, tọa lạc Phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An và lời trình bày của bà Toàn và các thành viên trong hộ gia đình thì quyền sử dụng đất nêu trên được cấp cho hộ gia đình, do bà Nguyễn Thị Kim Toàn đại diện chủ hộ đứng tên. Hộ gia đình bà Toàn gồm có: Bà Toàn, ông Thông, bà Thảo, ông Thiện, bà My, bà Trúc, ông Thức, bà Thanh, bà Linh, ông Trí. [3.5] Xét thấy, sau khi ký “giấy mua bán đất” giữa bà Toàn với bà Trinh ký kết năm 2011 thì bà Toàn thỏa thuận “đồng ý giao cho bên mua nhận đất trước để thi công cất nhà”. Thực tế, bà Toàn cũng đã giao quyền sử dụng đất theo hợp đồng cho bà Trinh, ông Năm và bà Tuyết quản lý, sử dụng từ thời điểm giao kết hợp đồng năm 2011. Ông Năm và bà Tuyết đã cất nhà và cùng các con là bà Ngân, ông Hải, bà Nhung sinh sống ổn định trên thửa đất này từ năm 2011 đến nay. Các thành viên trong hộ gia đình bà Toàn gồm ông Thông, bà Thảo, ông Thiện, bà My, bà Trúc, ông Thức, bà Thanh, bà Linh, ông Trí đều không tham gia thỏa thuận và giao kết hợp đồng chuyển nhượng nhưng khi ông Năm và bà Tuyết xây dựng công trình nhà ở và sinh sống trên quyền sử dụng đất tranh chấp, các thành viên trong hộ gia đình cũng không phản đối hay ngăn cản và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định thửa đất 38 là do ông Thông và bà Toàn tạo ra, những người con ông Thông và bà Toàn chỉ đứng tên trong hộ theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ bà Toàn nhưng không có đóng góp gì. [3.6] Theo quy định tại tiểu mục b.3 mục 2.3 Nghị quyết 02/2004/NQ- HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này (vi phạm điều kiện về mặt hình thức, hợp đồng không có công chứng, chứng thực), nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và hủy phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch”. Và theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.” Xét thấy tại thời điểm bà Toàn và bà Trinh ký hợp đồng chuyển nhượng hai bên không tuân thủ về mặc hình thức, bà Trinh mới thanh toán số tiền 30.000.000 đồng (tương ứng 7,89% giá trị đất) nhưng nguyên đơn đồng ý giao đất cho bị đơn và bị đơn đã xây nhà kiên cố trên phần đất nhận chuyển nhượng và sinh sống từ năm 2011 cho đến nay, phía nguyên đơn đồng ý và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Thảo, ông Thiện, bà My, bà Trúc, ông Thức, bà Thanh, bà Linh, ông Trí không có phản đối ngoài ra tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án thửa đất số 38 đã không còn thế chấp tại Ngân hàng, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của Ngân hàng nên hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Toàn và bà Trinh có hiệu lực. Như vậy, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn yều cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, yêu cầu bị đơn phải giao trả đất là không có cơ sở nên không chấp nhận, công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh vào năm 2011 đối với nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước và cũng không bị cơ quan nhà về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, phần đất có diện tích 212,8 m2, thuộc một phần thửa đất 38, tờ bản đồ 2-7; tọa lạc tại P có hiệu lực. [4] Về thanh toán số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất: [4.1] Giá trị phần đất tranh chấp có diện tích 212,8 m2, thuộc một phần thửa đất 38, tờ bản đồ 2-7; tọa lạc phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá nhà nước ngày 15/3/2023, quyền sử dụng đất có giá trị như sau: 9.595.000 đồng/m x 212,8 m = 2.041.816.000 đồng. Xét thấy khi giao kết hợp đồng hai bên thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất với số tiền 380.000.000 đồng, bà Trinh đã đưa cho bà Toàn số tiền 30.000.000 đồng, tương ứng với 7,89% giá trị quyền sử dụng đất. Như vậy bị đơn còn có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn 92,1% giá trị đất theo kết quả định giá hiện nay: 2.041.816.000 đồng x 92,1% = 1.880.512.536 đồng. [4.2] Đối với số tiền 30.000.000 đồng bà Trinh đã thanh toán cho bà Toàn: Xét thấy, tại thời điểm giao kết hợp đồng chuyển nhượng, bà Toàn biết rõ quyền sử dụng đất trên đang thế chấp tại Ngân hàng nhưng vẫn thỏa thuận để chuyển nhượng là có lỗi. Bà Nhung cho rằng, khi thỏa thuận chuyển nhượng bà Trinh không biết quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Ngân hàng đến hơn 01 tuần sau, khi lập “giấy mua bán đất” bà Trinh mới biết. Tuy nhiên, lời trình bày này của bà Nhung không có chứng cứ để chứng minh. Căn cứ vào “giấy mua bán đất” do hai bên lập thể hiện rõ nội dung quyền sử dụng đất trên đang thế chấp tại Ngân hàng. Vì vậy, bà Trinh cũng có lỗi trong việc thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khi quyền sử dụng đất trên đang bảo đảm cho một giao dịch khác. Bà Toàn và bà Trinh tự nguyện thỏa thuận và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng bằng giấy tay, không có công chứng, chứng thực là không đúng quy định của pháp luật dẫn đến các bên không thể tiến hành được các bước tiếp theo của trình tự, thủ tục chuyển nhượng, đây cũng là lỗi của cả 02 bên. Ngoài ra, bà Toàn còn có lỗi do tự ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình trong khi chưa có sự thống nhất của họ. Bà Trinh có lỗi vì đã không tìm hiểu về chủ sử dụng đối với quyền sử dụng đất mà mình nhận chuyển nhượng. Như vậy, cả bà Trinh và bà Toàn đều có lỗi khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì vậy, mỗi bên đều phải chịu 1⁄2 giá trị chênh lệch đối với số tiền 30.000.000 đồng, tương ứng với 7,89% giá trị chuyển nhượng. Theo kết quả định giá hiện nay được tính như sau: 2.041.816.000 đồng x 7,89% =161.099.282 đồng – 30.000.000 đồng = 131.099.282 đồng : 2 = 65.549.641 đồng. Nguyên đơn phải có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn số tiền 65.549.641 đồng. Như vậy, ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải phải tiếp tục thanh toán cho cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn, bà Nguyễn Thị Thanh Thảo, ông Nguyễn Toàn Thiện, bà Lê Thị Trà My, bà Nguyễn Thị Thu Trúc, ông Nguyễn Trí Thức, bà Nguyễn Thị Thiên Thanh, bà Nguyễn Thị Diệu Linh, ông Nguyễn Trọng Trí số tiền: 1.880.512.536 đồng - 65.549.641 đồng = 1.814.962.895 đồng. [4.3] Trong quá trình giải quyết vụ án ở Tòa án cấp sơ thẩm, bị đơn đề nghị Tòa án áp dụng giá theo Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An quy định về giá ở thời điểm hiện tại để bồi thường và tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn đồng ý thanh toán cho nguyên đơn số tiền 1.600.000.000 đồng nhưng không được nguyên đơn đồng ý, nnguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả đất nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận đề nghị của bị đơn. [5] Từ những phân tích trên, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu nhưng giao quyền sử dụng đất cho bị đơn là mâu thuẫn, không phù hợp với quy định của pháp luật nên cần sửa bản án dân sự sơ thẩm. [6] Xét thấy kháng cáo của ông Nguyễn Văn Thông, bà Nguyễn Thị Kim Toàn yêu cầu bị đơn trả đất không phù hợp nên không chấp nhận, kháng cáo của ông Nguyễn Văn Năm có phần phù hợp nên chấp nhận một phần. [7] Xét thấy kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tỉnh Long An không phù hợp nên không chấp nhận. [8] Về chi phí tố tụng ở cấp sơ thẩm là 44.500.000 đồng: Nguyên đơn, bị đơn mỗi bên phải chịu 1⁄2 chi phí tố tụng là: 44.500.000đ : 2 = 22.250.000 đồng. Ông Thông và bà Toàn đã tạm nộp. Ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải phải nộp 22.250.000 đồng (Hai mươi hai triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng) để hoàn lại cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn. [9] Về chi phí tố tụng ở cấp phúc thẩm: Bị đơn tự nguyện chịu chi phí định giá là 3.000.000 đồng (đã nộp xong). Nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí bản vẽ phân khu là 2.000.000 đồng (đã nộp xong). [10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu không được Tòa án chấp nhận, án phí dân sự là 300.000 đồng nhưng ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ông Năm, bà Ngân, ông Hải, bà Nhung phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho nguyên đơn, cụ thể: 1.814.962.895 đồng = 36.000.000 đồng + (3% x 1.014.962.895 đồng) = 66.448.886 đồng [11] Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn Thông, bà Nguyễn Thị Kim Toàn do ông Thông và bà Toàn là người cao tuổi. Ông Nguyễn Văn Năm không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Quyết định của hội đồng xét xử Bản án số: 112/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
QUYẾT ĐỊNH: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn Năm. Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2022/DS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân T Áp dụng các Điều 26, 35, 39, 40, 147, 157, 165, 271, 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015; Áp dụng các Điều 117, 119, 129, 288, 688 Bộ luật Dân sự 2015. Áp dụng Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử: 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh lập năm 2011 bằng “giấy mua bán đất” là vô hiệu. 2. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Kim Toàn và bà Nguyễn Thị Tuyết Trinh vào năm 2011 đối với phần đất có diện tích 212,8 m2, thuộc một phần thửa đất 38, tờ bản đồ 2-7; tọa lạc tại T có hiệu lực. 3. Giao quyền sử dụng phần đất có diện tích 212,8 m2, thuộc một phần thửa đất 38, tờ bản đồ 2-7; tọa lạc T (theo mảnh trích đo bản đồ địa chính số 1710-2022 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thành phố Tân An duyệt ngày 23/06/2022 và bản phân khu của Công ty TNHH đo đạc nhà đất Hưng Phú lập ngày 21/3/2023) và tài sản gắn liền với đất cho ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải. Các đương sự có quyền đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục điều chỉnh biến động hoặc đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. 15 Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án. Trường hợp bên phải thi hành án không giao nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên được thi hành án được quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh, thu hồi, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc một phần diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 4. Buộc ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn, bà Nguyễn Thị Thanh Thảo, ông Nguyễn Toàn Thiện, bà Lê Thị Trà My, bà Nguyễn Thị Thu Trúc, ông Nguyễn Trí Thức, bà Nguyễn Thị Thiên Thanh, bà Nguyễn Thị Diệu Linh, ông Nguyễn Trọng Trí số tiền 1.814.962.895 đồng (Một tỷ, tám trăm mười bốn triệu, chín trăm sáu mươi hai ngàn, tám trăm chín mươi lăm đồng). Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. 5. Về chi phí tố tụng ở cấp sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn phải nộp 22.250.000 đồng (Hai mươi hai triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng), đã nộp xong. Ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải phải nộp 22.250.000 đồng (Hai mươi hai triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng) để hoàn lại cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn. 6. Về chi phí tố tụng ở cấp phúc thẩm: Bị đơn tự nguyện chịu chi phí định giá là 3.000.000 đồng (đã nộp xong). Nguyên đơn tự nguyện chịu chi phí bản vẽ phân khu là 2.000.000 đồng (đã nộp xong). 7. Về án phí dân sự sơ thẩm: Miễn cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nguyễn Văn Năm, bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, bà Nguyễn Thị Tuyết Ngân, ông Nguyễn Thanh Hải có nghĩa vụ liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm là 66.448.886 đồng. 8. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn cho ông Nguyễn Văn Thông và bà Nguyễn Thị Kim Toàn án phí dân sự phúc thẩm Ông Nguyễn Văn Năm không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Năm số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số T ngày 15/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự TT 9. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 10. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Tên bản án là gì Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
hành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà NTMH Các Thẩm phán: Ông DVN Ông TVQ
Ai là nguyên đơn Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Nguyên đơn: 1.1. Bà BNN, sinh năm 1970. 1.2. Ông NVH, sinh năm 1969. Cùng địa chỉ: Số 150A, ấp 4, xã Bình Đức, BLLA. Người đại diện hợp pháp của bà Nhánh, ông Hôn: Ông NVT, sinh năm 1980. Địa chỉ: Số 49 Nguyễn Hữu Thọ, khu phố 3, BLLA (theo văn bản ủy quyền ngày 03/01/2020). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nhánh: Luật sư Nguyễn Hòa Bình - Đoàn Luật sư TLA
Ai là bị đơn Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Bị đơn: 2.1. Ông VVA, sinh năm 1972. 2.2. Bà LTL, sinh năm 1974. Cùng địa chỉ: Ấp 5, xã Phước Lợi, BLLA Người đại diện hợp pháp của ông Ẩn, bà Lynh: Ông Võ Hòa Thuận, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp 6, xã Nhựt Chánh, BLLA (theo văn bản ủy quyền ngày 07/10/2020). 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 3.1. Bà HTMH, sinh năm 1976. Địa chỉ: Số 42/8/2, đường Trần Đại Nghĩa, khu phố 6, phường Tân Tạo A, HCM 3.2. Bà PTTT, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp 1, xã Mỹ Yên, BLLA 3.3. Văn phòng công chứng Phạm Văn Tuấn. Địa chỉ: Số 07A, ấp 4, xã Phước Lợi, BBBLA Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn Tuấn - Trưởng Văn phòng. 3.4. Công chứng viên ông PVT Địa chỉ: Số 07A, ấp 4, xã Phước Lợi, BLLA - Người kháng cáo: Ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh. (Các đương sự có mặt; Bà Hồng, bà Thúy, Văn phòng công chứng Phạm Văn Tuấn, ông Tuấn vắng mặt)
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TLA tham gia phiên tòa: Ông LNH - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Thư ký phiên tòa: Bà NTMP - Thư ký Tòa án nhân dân TLA
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh do người đại diện hợp pháp ông Võ Hòa Thuận trình bày trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Ông Ẩn, bà Lynh là chủ sử dụng thửa đất số 29, tờ bản đồ số 3-1, diện tích 1.753,8m2, loại đất ONT, tọa lạc tại ấp 5, xã Phước Lợi, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Bà Phạm Thị Thanh Thuý, sinh năm 1984, địa chỉ: ấp 1, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An là phụ huynh của học sinh ông Ẩn, bà Lynh. Bà Thúy có con học tại Trung tâm dạy thêm do vợ chồng ông Ẩn, bà Lynh giảng dạy (tại nhà) và bà Thúy là người làm ăn mua bán đất và làm cò đất. Qua thời gian dài dạy con bà Thúy và tiếp xúc biết được bà Thúy cũng đàng hoàng. Khoảng giữa năm 2017, bà Thúy đề nghị ông Ẩn, bà Lynh hùn với mình mua đất sau đó bán lại kiếm lời. Ông Ẩn, bà Lynh từ chối với lý do không rành về đất đai, bà Thúy đề nghị ông Ẩn, bà Lynh có tiền tiết kiệm thì rút ra cho bà Thúy mượn, bà Thúy mua đất sau này bà Thúy bán đất được lời thì sẽ đền ơn cho ông Ẩn, bà Lynh. Ông Ẩn, bà Lynh đồng ý và đã rút tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Agribank số tiền là 1.500.000.000 đồng cho bà Thúy mượn và có nói sau này khi bán đất được thì trả lãi theo lãi Ngân hàng, còn có cho bao nhiêu thì cho chứ không lấy lãi cao của bà Thúy. Đến đầu năm 2018, bà Thúy trình bày do làm ăn khó khăn bà Thúy mua đất mà ra không được nên kẹt tiền và có đề nghị ông Ẩn, bà Lynh vay giúp Ngân hàng để trả lãi thấp và vay thêm một khoản tiền đền ơn cho ông Ẩn, bà Lynh sau. Ông Ẩn, bà Lynh cũng tin tưởng, hơn nữa vì đã lỡ cho mượn số tiền 1.500.000.000 đồng trước đó nếu không giúp thì không biết khi nào bà Thúy trả lại tiền được. Chính vì vậy, ông Ẩn, bà Lynh thống nhất sẽ vay Ngân hàng để bà Thúy nhận tiền đó thanh toán tiền đất bà Thúy đã mua mà chưa thanh toán cho người ta. Ngày 18/6/2018, ông Ẩn, bà Lynh đã mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình là thửa đất số 29 vay thế chấp tại Quỹ tín dụng Gò Đen với số tiền vay là 1.700.000.000 đồng, thời hạn vay là 60 tháng. Sau khi vay tiền xong tại Quỹ tín dụng nhân dân Gò Đen (gọi tắt Quỹ tín dụng Gò Đen), ông Ẩn, bà Lynh giao cho bà Thúy toàn bộ số tiền nêu trên bà Thúy quen với Ngân hàng và thực hiện việc thanh toán tiền lãi vay cho Ngân hàng đúng kỳ thanh toán lãi không để trễ hạn. Đến tháng 4/2019, bà Thuý có trình bày với ông Ẩn, bà Lynh là mình có dự án đất đai tại thành phố Tân An và sẽ có tiền để xử lý hết các khoản 4 nợ trước đó đã vay của ông Ẩn, bà Lynh đồng thời đề nghị ông Ẩn, bà Lynh giúp thêm một lần nữa để chuộc giấy ở Ngân hàng ra và ký vay bên ngoài cho người khác để lấy tiền nhiều hơn để thanh toán tiền nợ cho Ngân hàng. Ngày 02/5/2019, bà Thúy dẫn bà Huỳnh Thị Mỹ Hồng là người ở thành phố Hồ Chí Minh xuống giới thiệu là người đồng ý cho bà Thúy vay tiền trong thời gian ngắn để bà Thuý xoay vốn. Ông Ẩn, bà Lynh cùng với người của bà Hồng, bà Thúy đến trả tiền Quỹ tín dụng Gò Đen và lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay của bà Hồng với số tiền 5.000.000.000 tỷ đồng, thời hạn vay là 02 (hai) tháng nhưng bên cho vay tiền bắt buộc phải ký hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi ký tên thì ông Ẩn, bà Lynh ra về, còn giao nhận tiền bạc là giữa bà Thúy và bà Hồng tự giao nhận với nhau, ông Ẩn, bà Lynh không biết. Đến hạn phải trả tiền vay cho bà Hồng, bà Thúy trình bày là đất bà Thúy mua kêu bán nhưng bán không được bà Hồng đòi dữ quá nên bà Thúy đề nghị vay của người khác để trả cho bà Hồng. Bà Thúy hẹn ông Ẩn, bà Lynh ra Văn phòng công chứng và ký tên chuyển nhượng để bà Thúy vay tiền lấy tiền trả cho bà Hồng. Ngày 03/7/2019, bà Thúy, bà Hồng cùng vợ chồng ông Ẩn có mặt tại Văn phòng công chứng, khi đó ông Ẩn, bà Lynh ký hủy bỏ hợp đồng với bà Hồng và ký hợp đồng chuyển nhượng lại cho bà Nhánh để vay số tiền 6.000.000.000 đồng. Sau khi ký tên xong vợ chồng ông Ẩn, bà Lynh ra về còn tiền bạc là giữa bà Thúy và bà Hồng cùng bà Nhánh giao nhận ra sao thì ông Ẩn, bà Lynh không chứng kiến, không biết cụ thể và phía bà Nhánh, bà Hồng cũng không yêu cầu gì đối với ông Ẩn, bà Lynh. Đến ngày 22/7/2019, bà Thúy điện thoại kêu ông Ẩn đi ký giấy tờ để hợp thức hóa hồ sơ vay tiền của bà Nhánh vì khi lập hợp đồng chuyển nhượng không có giao kết rõ ràng, sợ sao này vướng pháp luật và cũng tránh việc đòi tiền kiểu bà Hồng trước đó nên ông Ẩn đã đi theo bà Thúy đến gặp ông Diệu, bà Nhánh và các bên có ký hợp đồng thuê nhà, giấy thế chấp, biên bản bàn giao nhà. Trong nội dung ký này có nội dung ghi là đã nhận 12.000.000.000 tỷ đồng, ông Ẩn có hỏi thì được giải thích là giá trị bên bà Nhánh ước tính tài sản đem thế chấp cho bà Nhánh vì khi cho vay không ai cho vay vượt qua giá trị tài sản cả. Khi ký chỉ có ông Ẩn ký tên chứ không có bà Lynh, sau khi ký xong không có sự việc giao nhận tiền gì. Sau khi ký thì ông Ẩn và bà Thúy ra về, giấy tờ đó phía bà Nhánh giữ. Đến ngày 21/9/2019, bà Thúy liên hệ với ông Ẩn, bà Lynh báo rằng bà Thúy đã bán được vài lô đất và đã trả tiền vay cho bà Nhánh chỉ còn thiếu lại 1.000.000.000 tỷ đồng và đề nghị ông Ẩn, bà Lynh ra ký lại hồ sơ là chỉ còn nợ 1.000.000.000 tỷ đồng. Ông Ẩn, bà Lynh đến Văn phòng công chứng thì có bà Nhánh và ông Hôn có mặt tại Phòng công chứng. Theo đó, ông Ẩn, bà Lynh ký hủy hợp đồng giao kết với bà Nhánh và ký tiếp hợp đồng chuyển nhượng cho ông Hôn, giá trị chuyển nhượng là 1.000.000.000 tỷ đồng. Khi thấy ký lại hợp đồng cho ông Hôn, ông Ẩn có hỏi sao không ký hợp đồng cho bà Nhánh lại thì bà Thúy cùng bà Nhánh cho biết ông Hôn là chồng bà Nhánh nên không sao. Phía người của Văn phòng công chứng giải thích không thể hủy hợp đồng chuyển nhượng giá 6.000.000.000 tỷ với bà Nhánh rồi ký lại hợp đồng với bà Nhánh giá 1.000.000.000 tỷ được, vì việc giao dịch là cùng 01 thửa đất, hợp đồng đã được công chứng sẽ lưu vào hệ thống máy tính nên không ký như vậy được. Trước khi ký tên, ông Ẩn, bà Lynh có kiểm tra nội dung trong các giấy tờ mình ký thì thấy mình ký hủy hợp đồng 6.000.000.000 tỷ đồng trước, trong đó có 5 nội dung phía bà Nhánh nhận lại 6.000.000.000 tỷ đồng và thanh lý trách nhiệm đối với hợp đồng này. Rồi xem nội dung hợp đồng với ông Hôn giá là 1.000.000.000 tỷ đồng, nội dung ký kết giống như nội dung trao đổi thỏa thuận nên ông Ẩn, bà Lynh đã ký tên vào các hợp đồng trên. Sau khi ký tên thì mọi người ra về không có sự giao nhận tiền hay gì cả không giống như các lần trước. Thấy vậy ông Ẩn, bà Lynh càng tin tưởng hơn. Vào giữa tháng 11/2019 bà Thúy có mâu thuẫn gia đình có uống thuốc tự vẫn đưa vô Bệnh viện rồi phía bên bà Nhánh không nhận tiền lãi đúng hạn của bà Thúy, bà Nhánh đi tìm bà Thúy và tìm không được bà Thúy nên cho người xuống nhà ông Ẩn, bà Lynh yêu cầu trả tiền lãi. Thực chất, không có việc ông Ẩn, bà Lynh chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 cho ông vợ chồng bà Nhánh, ông Hôn mà bản chất của hợp đồng trên chỉ là hợp đồng vay tài sản. Ông Ẩn, bà Lynh ký các Hợp đồng trên nhằm bảo lãnh số tiền vay của bà Phạm Thị Thanh Thuý. Trước yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn cũng đồng ý tuyên bố vô hiệu đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 được xác lập vào ngày 21/9/2019 giữa ông Ẩn, bà Lynh với ông Hôn. Ông Ẩn, bà Lynh chỉ đồng ý trả cho ông Hôn, bà Nhánh số tiền 1.000.000.000 tỷ đồng theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 21/9/2019. Ngoài ra, ông Ẩn, bà Lynh không có ý kiến và yêu cầu gì khác.
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Quan điểm của viện kiểm sát Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Nhận định của hội đồng xét xử Bản án số: 42/2023/DS-PT Ngày: V/v tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến và quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: [1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh thực hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về thủ tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Thị Mỹ Hồng và bà Phạm Thị Thanh Thúy đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Văn phòng công chứng Phạm Văn Tuấn, Công chứng viên ông Phạm Văn Tuấn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này. [3] Xét kháng cáo của ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh, thấy rằng: [3.1] Tại phiên toà phúc thẩm, ông Nguyễn Văn Tâm là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 mà ông Ẩn, bà Lynh đã ký với ông Hôn ngày 21/9/2019 và yêu cầu ông Ẩn, bà Lynh phải liên đới trả cho ông Hôn, bà Nhánh số tiền vay là 12.000.000.000 tỷ đồng. Ông Võ Hòa Thuận là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đồng ý tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 mà ông Ẩn, bà Lynh đã ký với ông Hôn ngày 21/9/2019 vô hiệu, nhưng chỉ đồng ý trả số tiền vay còn nợ là 1.000.000.000 tỷ đồng. [3.2] Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy nguyên đơn và bị đơn trình bày thống nhất việc vợ chồng ông Ẩn, bà Lynh ký các Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 03/7/2019, Hợp đồng thế chấp thửa đất số 29 và căn nhà trên thửa đất này cho bà Nhánh, Hợp đồng thuê nhà và Biên bản giao và nhận nhà cùng ngày 22/7/2019 thực chất là để đảm bảo cho việc ông Ẩn, bà Lynh vay tiền của bà Nhánh. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông Tâm trình bày do vợ chồng ông Ẩn, bà Lynh không có tiền trả nên vào ngày 21/9/2019 các bên đã thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 29 với giá là 12.000.000.000 tỷ đồng cùng với số tiền lãi vay. Bị đơn không thừa nhận có việc chuyển nhượng đất với số tiền như ông Tâm trình bày, ông Thuận cho rằng thửa đất 29 mà ông Ẩn, bà Lynh thế chấp cho bà Nhánh, ông Hôn là để đảm bảo cho khoản vay của bà Thúy, do chỉ còn nợ lại số tiền 1.000.000.000 tỷ đồng nên hai bên ký lại hợp đồng chuyển nhượng ngày 21/9/2019 với giá 1.000.000.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, các bên đồng ý vô hiệu Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 21/9/2019 vì đó là Hợp đồng giả tạo để nhằm che dấu Hợp đồng vay tài sản nên Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 21/9/2019 vô hiệu theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Hợp đồng vay tài sản xác lập giữa các đương sự có hiệu lực. [3.3] Đối với số tiền vay: Nguyên đơn xác định số tiền cho bị đơn vay là 12.000.000.000 tỷ đồng, bị đơn thừa nhận chỉ có vay 6.000.000.000 tỷ đồng, sau đó đã trả 5.000.000.000 tỷ đồng, nên chỉ đồng ý trả số tiền còn nợ là 1.000.000.000 tỷ đồng. Căn cứ Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng thửa đất số 29 và tài sản trên đất được xác lập giữa ông Ẩn, bà Lynh với bà Nhánh ngày 22/7/2019, thấy rằng sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 03/7/2019 để đảm bảo cho khoản vay 12.000.000.000 tỷ đồng, do hai bên không có lập biên bản giao nhận tiền nên ngày 22/7/2019 ông Ẩn đã ký Hợp đồng thế chấp thửa số 29 và căn nhà trên thửa đất này cho bà Nhánh với thời hạn 06 tháng để đảm bảo cho số tiền vay 12.000.000.000 tỷ đồng và trong Hợp đồng thế chấp đã ghi rõ: bên A (ông Ẩn và bà Lynh) có nhận của bên B (bà Nhánh) số tiền 12.000.000.000 đồng” nên có căn cứ xác định bà Nhánh đã giao cho ông Ẩn số tiền vay 12.000.000.000 tỷ đồng. Người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng bị đơn không có vay của nguyên đơn số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng, bà Nhánh không có chứng cứ gì chứng minh cho bị đơn vay số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng, tại hợp đồng thế chấp ghi số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng là do phía bà Nhánh tự ghi để xác định giá trị tài sản mà phía bị đơn thế chấp cho nguyên đơn cao hơn số tiền cho vay chứ trên thực tế bị đơn không có nhận số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng, bị đơn xác định ông Ẩn, bà Lynh chỉ đứng ra ký các hợp đồng giao dịch để đảm bảo cho việc bà Thúy vay số tiền 6.000.000.000 tỷ đồng của bà Nhánh để trả cho bà Hồng ngay sau khi ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 03/7/2019, thực chất bà Thuý là người trực tiếp đứng ra giao nhận tiền với bà Nhánh và đóng lãi cho bà Nhánh. Sau đó bà Thúy báo đã bán được vài lô đất và đã trả tiền vay cho bà Nhánh chỉ còn thiếu lại 1.000.000.000 tỷ đồng và đề nghị ông Ẩn, bà Lynh ra ký lại hồ sơ là chỉ còn nợ 1.000.000.000 tỷ đồng. Ngày 21/9/2019 tại Văn phòng công chứng Phạm Văn Tuấn, ông Ẩn, bà Lynh với bà Nhánh đã ký Hợp đồng hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 03/7/2019. Tại khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này có thể hiện nội dung: “...Kể từ ngày hủy bỏ Hợp đồng này, Bên A (tức bên ông Ẩn và bà Lynh) sẽ nhận lại đầy đủ số tiền là 6.000.0000 đồng (Sáu tỷ đồng) và xem như quyền lợi, nghĩa vụ hai bên đã được giải quyết xong. Hai bên cam kết không tranh chấp hay khiếu nại bất cứ điều gì về sau...”. Hai bên ký kết lại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 29 ngày 21/9/2019 với giá chuyển nhượng là 1.000.000.000 tỷ đồng. Sau khi ký kết Hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này thì phía bị đơn ông Ẩn, bà Lynh cũng không thanh toán bất kỳ số tiền nào cho nguyên đơn. Bị đơn cũng trình bày ngày 21/9/2019 sau khi ký kết hợp đồng hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập giữa ông Ẩn, bà Lynh với bà Nhánh thì việc trả tiền do bà Thúy trực tiếp trả tiền cho bà Nhánh, nhưng phía bị đơn không có chứng cứ gì chứng minh cho việc đã trả số tiền 5.000.000.000 tỷ đồng cho bà Nhánh nên lời trình bày của bị đơn không có căn cứ chấp nhận. [3.4] Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm đã đưa bà Huỳnh Thị Mỹ Hồng, bà Phạm Thị Thanh Thuý vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng Tuy nhiên, ông Tâm đại diện nguyên đơn không thừa nhận có việc cho bà Thúy vay tiền như phía bị đơn trình bày cũng không có việc bà Thuý đóng tiền lãi cho nguyên đơn, số tiền lãi 720.000.000 đồng là do bà Nhánh nhận trực tiếp từ ông Ẩn, đồng thời theo các giấy tờ giao dịch của các bên thể hiện thì bà Thúy chỉ ký tên với tư cách là người làm chứng, không có tài liệu chứng cứ nào thể hiện bà Thúy đã vay và nhận tiền của bà Nhánh. 12 để triệu tập bà Hồng, bà Thuý đến Toà án để làm rõ các thông tin có liên quan đến vụ án nhưng bà Hồng, bà Thuý đều vắng mặt nên Toà án không thể tiến hành làm việc, đối chất, hoà giải giữa các bên. Đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ án, việc giao nhận tiền do bà Thuý là người trực tiếp đứng ra nhận. bà Thuý chỉ là người làm chứng đi cùng ông Ẩn, bà Lynh, nguyên đơn không có bất kỳ giao dịch hay quan hệ vay vốn gì với bà Thuý, Bị đơn không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ chứng minh bà Thuý là người trực tiếp nhận các số tiền nêu trên và cũng không cung cấp được bất kỳ văn bản thoả thuận nào thể hiện việc bà Thuý nhờ ông Ẩn, bà Lynh đứng ra vay tiền dùm và bà Thúy đã trả cho nguyên đơn số tiền 5.000.000.000 tỷ đồng. [4.5] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Tâm xác định số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng là tài sản chung của ông Hôn, bà Nhánh. Đối với bị đơn, tuy trong Hợp đồng thế chấp bà Lynh không ký tên vào, nhưng tất cả các hợp đồng chuyển nhượng cũng như Hợp đồng hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng bà Lynh đều có ký tên, điều đó chứng minh bà Lynh biết được số tiền mà ông Ẩn đã nhận từ ông Hôn, bà Nhánh. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hôn, bà Nhánh buộc ông Ẩn, bà Lynh phải liên đới trả cho ông Hôn, bà Nhánh số tiền 12.000.000.000 tỷ đồng là phù hợp. Từ phân tích trên thấy rằng kháng cáo của ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh không có căn cứ nên không chấp nhận. [5] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận. [6] Xét đề nghị của Luật sư Nguyễn Hòa Bình là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn có căn cứ nên chấp nhận. [7] Về chi phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, xác minh, thu thập chứng cứ tổng cộng là 8.000.000 đồng, nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ (đã nộp và chi xong). [8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thuỳ Lynh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với các yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, cụ thể: ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh phải liên đới chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và 120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Hôn, bà Bùi Thị Ngọc Nhánh (12.000.000.000 tỷ đồng = 112.000.000 đồng + 0,1 % x 8.000.000.000 tỷ đồng = 120.000.000 đồng). [9] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Võ Văn Ẩn, bà Lê Thùy Lynh phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
Tên bản án là gì Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Hội đồng xét xử gồm những ai Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thu Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thiện Tâm Bà Đinh Thị Ngọc Yến
Ai là nguyên đơn Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Nguyên đơn: Ông Trần Công Đ, sinh năm 1976; Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Ai là bị đơn Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Bị đơn: Ông Võ Hoàng P, sinh năm 1977; Địa chỉ: Ấp 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Võ Hoàng P: Luật sư Nguyễn Thanh T, Văn phòng Luật sư Cao Minh T, Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang. - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Ngọc M, sinh năm 1977; Địa chỉ: Ấp 2, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An. - Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1977; Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An. - Người kháng cáo: Ông Võ Hoàng P – Bị đơn; bà Trần Ngọc M - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ai là đại diện Viện kiểm sát Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà Đặng Thị Cẩm Chi - Kiểm sát viên.
Ai là thư ký toà Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Tiến Đức - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Nội dung vụ án theo trình bày của nguyên đơn Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Tại đơn khởi kiện ngày 09 tháng 11 năm 2021 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Trần Công Đ trình bày: Ngày 04-8-2021 (âm lịch) tức ngày 10-9-2021 dương lịch, ông Đ có cho ông P vay 100.000.000 đồng, không tính lãi, hẹn đến khi cân lúa bán xong sẽ trả. Việc giao nhận tiền không làm giấy tờ nhưng có camera nhà ông Đ ghi hình lại. Ngày 08-8-2021 âm lịch, ông P bán lúa cho ông Đ với tổng số tiền 307.950.000 đồng, trừ lại số tiền ông Đ đã đặt cọc trước đó 03 lần là 66.000.000 đồng, còn lại 241.950.000 đồng thì ông Đ đã trả cho ông P xong mà không trừ lại số tiền 100.000.000 đồng ông P nhận ngày 10-9-2021. Khi ông Đ gọi điện thì ông P xác nhận số tiền 100.000.000 đồng đã nhận trước đó nhưng không đồng ý trả. Ông Đ khởi kiện yêu cầu ông P trả 100.000.000 đồng tiền gốc, cộng lãi tạm tính đến ngày nộp đơn khởi kiện là 1.520.000 đồng, cách tính: lãi suất 0,8%/tháng từ ngày 08-8-2021 âm lịch đến 05-10-2021 âm lịch (ngày nộp đơn khởi kiện) là 01 tháng 27 ngày) và yêu cầu tính lãi đến ngày giải quyết xong vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm ông Đ giữ nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện đối với ông P, yêu cầu ông P và bà M trả tổng cộng 109.146.666 đồng gồm 100.000.000 đồng tiền gốc và 9.146.666 đồng tiền lãi (cách tính: lãi suất 0,8%/tháng từ ngày 10-9-2021 đến ngày xét xử sơ thẩm 23-8-2022 là 11 tháng 13 ngày, thành tiền 9.146.666 đồng).
Nội dung vụ án theo trình bày của bị đơn Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Bị đơn ông Võ Hoàng P trình bày: Ông P không vay tiền của ông Đ. Ngày 04-8-2021 (âm lịch) ông P có nhận 100.000.000 đồng tại nhà của ông Đ theo camera mà ông Đ cung cấp cho Tòa án nhưng đó là tiền ông Đ giao ông P đi trả tiền lúa đã mua cho ông Đ. Sau đó ông Đ đã thanh toán và trừ lại số tiền 100.000.000 đồng xong. Ông P không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Ngọc M trình bày: Bà M là vợ ông P nhưng không liên quan gì đến việc mua bán của ông P và ông Đ. Ông P nhận tiền từ ông Đ là để trả tiền mua lúa cho ông Đ để ăn huê hồng trên đầu tấn. Việc ông P làm ăn chung với ông Đ cũng tạo nguồn thu nhập cho gia đình. Ông P hoàn toàn không vay tiền của ông Đ nên bà M không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/DS-ST ngày 23 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ Huệ quyết định: Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Công Đ về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông Võ Hoàng P với số tiền 101.999.999 đồng. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Công Đ về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đối với ông Võ Hoàng P về số tiền lãi 7.146.667 đồng. Buộc ông Võ Hoàng P và bà Trần Ngọc M phải trả cho ông Trần Công Đ tổng cộng 101.999.999 đồng (một trăm lẻ một triệu, chín trăm chín mươi chín nghìn, chín trăm chín mươi chín đồng) gồm 100.000.000 đồng tiền gốc và 1.999.999 đồng tiền lãi. Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự. Ngày 31-8-2022, bị đơn ông Võ Hoàng P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Ngọc M kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, ông P và bà M không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn ông Võ Hoàng P trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết không đúng quan hệ pháp luật tranh chấp. Ông Đ là người mua lúa, ông P là môi giới. Các bên thống nhất số lúa, tiền đặt cọc, tiền thanh toán cho các nhà vườn. Ông P không thừa nhận có vay tiền của ông Đ, ông Đ không chứng minh được việc cho ông P vay tiền. Khi ông Đ trình báo Công an là ông P chiếm đoạt tiền đưa nhầm. Ông Đ không chứng minh được đã giao ông P 241.943.000 đồng. Bà B là người làm chứng do ông Đ cung cấp, có lời khai ban đầu mâu thuẫn với các lời khai hiện nay. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông P có nhận của ông Đ 100.000.000 đồng nên phải trả là chưa xem xét toàn diện vụ án làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông P. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông P, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến: - Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đơn kháng cáo của ông P và bà M trong thời hạn luật quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. - Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Ông Đ có giao cho ông P 100.000.000 đồng, ông P cũng thừa nhận nên bản án sơ thẩm buộc ông P trả cho ông Đ là có căn cứ nên kháng cáo của ông P không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Lập luận của luật sư bảo vệ quyền lợi của bị đơn Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”
Quyết định của toà sơ thẩm Bản án số: 37/2023/DS-PT Ngày: 09-02-2023 V/v “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản”